Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ, Người khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”1. Kế thừa, vận dụng tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước đã có những quan điểm cơ bản nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội mà trọng tâm là lĩnh vực chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Nữ đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ảnh: qdnd.vn.
Quan điểm của Đảng về vai trò của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và trên lĩnh vực chính trị nói riêng. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng đều đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước, từng bước nâng cao vai trò của phụ nữ trong thực hiện nam nữ bình quyền.

Đảng thể hiện sự nhất quán về lập trường, tư tưởng, thái độ đối với vấn đề giải phóng phụ nữ và phát huy vai trò to lớn của phụ nữ. Trong Án Nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội vào tháng 10/1930, Đảng ta đã nhận định và đánh giá chính xác khả năng và vai trò của phụ nữ. Theo đó, Đảng khẳng định lực lượng cách mạng của phụ nữ là một lực lượng trọng yếu, nếu phụ nữ không tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể có được thắng lợi. Điều này cho thấy, từ khi mới thành lập, Đảng đã đánh giá đúng vị trí, vai trò và khả năng của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được quan tâm, được giải phóng, được khẳng định vai trò của mình với vận mệnh của đất nước và của chính bản thân phụ nữ. Lần đầu tiên một chính đảng đánh giá đúng vai trò, vị trí và khả năng cách mạng của phụ nữ và có những chủ trương, phương thức lãnh đạo phù hợp để tập hợp, huy động phụ nữ tham gia vào con đường đấu tranh cách mạng. Từ quan điểm của Đảng, ngày 03/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập trên cơ sở tập hợp các tổ chức phụ nữ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Việt Nam tích cực thực hiện các nhiệm vụ ở hậu phương, lại vừa trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường góp phần vào thắng lợi, giành độc lập dân tộc.

Tại Hiến pháp năm 1946, quyền bình đẳng của phụ nữ được khẳng định rõ tại Điều thứ 9: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Tinh thần này của bản Hiến pháp năm 1946 đã được thể hiện sinh động trong các chủ trương, chính sách và các bản Hiến pháp của Việt Nam sau này, khẳng định được tầm quan trọng của người phụ nữ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ thân phận nô lệ, bị áp bức, bị bóc lột và bị chà đạp trong xã hội cũ thì phụ nữ đã được tự tay cầm lá phiếu để bầu ra những người đại diện cho mình nhằm thực hiện ý chí, quyết tâm của cả dân tộc là đấu tranh cho tự do và độc lập dân tộc.

Ngày 07/6/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với đội ngũ cán bộ nữ. Theo đó, Đảng chỉ rõ, các đoàn thể cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để có thật nhiều cán bộ nữ đủ năng lực giữ những trọng trách quan trọng trong công tác lãnh đạo và quản lý các ngành, các cấp, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong phụ nữ. Nghị quyết số 176a-HĐBT ngày 24/12/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã đề ra nội dung phân bố, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và bảo hộ lao động nữ nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế và xã hội.

Bên cạnh đó, ngày 29/7/1980, Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về “Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ” (CEDAW) của Liên hiệp quốc và được Quốc hội phê chuẩn ngày 17/02/1982. Điều này khẳng định vị trí của Việt Nam, phụ nữ Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, từ đây, phụ nữ Việt Nam được hỗ trợ, tạo điều kiện về mặt pháp lý trong việc tham gia hoạt động chính trị.

Tiếp đó, các văn bản chỉ đạo, văn bản pháp luật, như: Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới đã chỉ ra mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng…; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã đánh giá việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của người phụ nữ; Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ bình đẳng giữa nam và nữ tham gia vào đời sống chính trị của cộng đồng.

Đặc biệt, ngày 29/10/2006, Quốc hội thông qua Luật Bình đẳng giới đã khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong tiến trình thúc đẩy bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ với những quy định về quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiếp đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó, công tác phụ nữ được quan tâm toàn diện, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội cũng như cấp ủy và Hội đồng nhân dân các cấp tăng lên theo các nhiệm kỳ. Trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh chủ trương: “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”2.

Những năm qua, số lượng cán bộ nữ tham gia vào lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương ngày càng tăng, cho thấy năng lực của cán bộ nữ ngày càng được nâng lên. Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ vào thành quả của công cuộc đổi mới đã làm thay đổi những định kiến về vai trò, vị trí của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị. Đây là một trong những cơ sở thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng khẳng định vị thế của phụ nữ đang nắm giữ những vị trí chủ chốt trong các cơ quan nhà nước thời kỳ phát triển, đổi mới đất nước.

Thiết lập tư tưởng về bình đẳng giới trong nhận thức của người dân

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Xã hội không thể có tiến bộ, công bằng nếu như một bộ phận của xã hội còn bị hạn chế hay bị loại ra khỏi hoạt động chính trị của xã hội. Từ xưa, khi xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp, xuất hiện áp bức, bóc lột, nô dịch và bất công thì sự bất bình đẳng giữa nam và nữ cũng bắt đầu xuất hiện. Trong xã hội phong kiến phương Đông, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại và có ảnh hưởng sâu sắc đến ngày nay.

Cùng với sự phát triển qua các hình thái kinh tế – xã hội, phụ nữ đã góp phần quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển của con người cũng như sự phát triển của xã hội.

Trước đây, người ta thường nhắc đến những quan niệm lỗi thời, những tư tưởng lạc hậu, những phong tục tập quán cổ hủ là những nguyên cớ dẫn đến sự khinh miệt và đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ mà quên mất căn nguyên cơ bản nhất đó là những căn nguyên về kinh tế – xã hội đã khiến người phụ nữ chịu sự áp bức, bóc lột dưới gót giày của chủ nghĩa thực dân. Hậu quả của sự áp bức đó không chỉ làm hạn chế sự phát triển của phụ nữ mà còn cản trở tiến trình phát triển của cả nhân loại. Nó tồn tại và kéo dài qua nhiều thế kỷ, vấn đề giải phóng phụ nữ đã trở thành một trong những mục tiêu hết sức quan trọng của cách mạng XHCN.

Để tạo bước đột phá nhằm loại bỏ và khắc phục những định kiến về giới, về cách nhìn sai lệch của xã hội đối với vị thế của phụ nữ, khả năng chính trị của họ thì cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng và tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị hiện đại. Sự tham gia chính trị của phụ nữ chính là thành tựu to lớn của văn minh chính trị, là tiêu biểu cho một thể chế, một nền dân chủ hiện đại mang định hướng XHCN và là thước đo sự tiến bộ của xã hội. Muốn đạt được kết quả này thì phụ nữ cần phải thật sự được giải phóng.

Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lĩnh vực chính trị

Thực hiện bình đẳng giới và phát huy vai trò của phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các tổ chức tiến bộ vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Để có thể phát huy vai trò của phụ nữ cần có sự kết hợp của toàn xã hội và toàn bộ hệ thống chính trị nhằm xóa bỏ những rào cản về nhận thức, tâm lý, pháp lý và địa vị kinh tế – xã hội.

Ngày 31/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 515/QĐ-TTg phê duyệt đề án thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2020. Mục tiêu của Đề án là giảm sự chênh lệch về điều kiện, cơ hội của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội so với nam giới. Bên cạnh đó, là phát huy năng lực của nữ cán bộ, công chức, viên chức so với nam giới trong vấn đề quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tại các cơ quan nhà nước nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có năng lực, trí tuệ và đạo đức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, để phụ nữ có thể phát huy hết năng lực, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thì cần phải có sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị. Trước hết, cần phải có những chính sách cụ thể, lâu dài trong việc đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bố trí công việc phù hợp đối với phụ nữ trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực chính trị. Ngoài ra, cần nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vị trí, vai trò của người phụ nữ đối với xã hội. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng phải tự vươn lên, tự học tập để nâng cao năng lực, trình độ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phụ nữ tự giải phóng mình, tự nâng cao vị thế của mình đối với xã hội.

Việt Nam được quốc tế ghi nhận đã có nhiều nỗ lực, đưa ra các biện pháp và thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giới, trong đó có nỗ lực tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, từng bước xóa bỏ khoảng cách về giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng và các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung. Hiện nay, Việt Nam là quốc gia có số lượng đại biểu Quốc hội là nữ chiếm tỷ lệ cao trong khu vực. Đại biểu Quốc hội khóa XV có số lượng đại biểu Quốc hội phụ nữ lớn nhất với 151 đại biểu (đạt 30,2%), đưa Việt Nam lên vị trí thứ 51 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội3.

Kết luận

Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đều đưa ra một số quan điểm cơ bản nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam. Đây là bước tiến lớn đối với sự phát triển của phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và lĩnh vực chính trị nói riêng. Là cơ sở, động lực để phụ nữ phát huy, khẳng định được vị trí, vai trò của mình đối với sự phát triển của xã hội; từ đó, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. NXB Chính trị quốc gia, 2021, tr. 340.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H.NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 169.
3. Thông qua Nghị quyết xác nhận tư cách Đại biểu Quốc hội khóa XV với 499 người trúng cử. https://baochinhphu.vn, ngày 21/7/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Phụ nữ Việt Nam – những chặng đường vẻ vang dưới cờ Đảng vinh quang. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 22/11/2020.
ThS. Quách Thành Long
Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình