Tiêu chí pháp quyền – một trong các tiêu chí đánh giá về tính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả của nền quản trị quốc gia

(Quanlynhanuoc) – Nhà nước pháp quyền, quản trị nhà nước tốt, quản trị quốc gia là thuật ngữ được các nhà khoa học nghiên cứu nhiều về nội hàm khái niệm, đặc điểm, cách tiếp cận, làm rõ về lý luận và thực tiễn đều hướng đến mục đích quốc gia/dân tộc phát triển trên mọi lĩnh vực và vận hành phải dựa trên thể chế, pháp luật, quy chế, quy trình thủ tục nhất định Bài viết luận giải tiêu chí pháp quyền, nội dung, thách thức khi tổ chức thực hiện và giải pháp áp dụng/vận dụng tiêu chí pháp quyền đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, hiện đại trong nền quản trị quốc gia ở Việt Nam.
Ảnh minh hoạ: tuyengiao.vn.
Quan niệm về tiêu chí pháp quyền trong đánh giá về tính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả của nền quản trị quốc gia

Theo Từ điển Black’s law, pháp quyền là “trạng thái tuyệt đối rằng luật pháp đứng trên mọi công dân bất chấp sự khác biệt về quyền lực giữa các công dân”1. Pháp quyền là nguyên tắc quản trị mà trong đó tất cả cá nhân, tổ chức, thiết chế, cả công cộng và tư nhân, kể cả nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật, được áp dụng bình đẳng và phân định một cách độc lập, phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.

Nhận thức cốt lõi về pháp quyền, đó là: pháp luật có tính tối thượng mà mọi chủ thể bao gồm cả người dân và nhà nước đều bị điều chỉnh bởi pháp luật và đều phải tuân thủ pháp luật; pháp luật đó phải là pháp luật bảo vệ công lý, công bằng và lẽ phải, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và pháp luật đó được hình thành một cách dân chủ, chứa đựng các giá trị của quốc gia, dân tộc và quốc tế2. Nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò nền tảng cho định hướng hoạt động của các quốc gia, ràng buộc quan hệ giữa các nước. Vì thế, pháp quyền được xem là nguyên tắc phổ quát có tính toàn cầu, giữ vai trò như một yếu tố nền tảng trong các quan hệ quốc tế.

Nội dung cốt lõi của các nguyên tắc pháp quyền là pháp luật giữ vị trí tối thượng trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, là giới hạn đối với quyền lực nhà nước và tồn tại khách quan đối với quyền lực nhà nước. Vì thế, Nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước, công chức và viên chức nhà nước nói riêng đều bị ràng buộc bởi pháp luật, phải tuân thủ và chấp hành pháp luật.

Nguyên tắc pháp quyền với tư cách là nguyên tắc tổng quát, là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo về sự tuân thủ tinh thần và nội dung của Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước cũng như của các thiết chế chính trị – xã hội trong một nhà nước dân chủ và pháp quyền; là nguyên tắc xử sự giữa các quốc gia theo các điều ước và thông lệ quốc tế.

Năm 2004, Tổng thư ký Liên Hiệp quốc Kofi Annan đã nêu định nghĩa về nhà nước pháp quyền như sau: “Nhà nước pháp quyền là quan điểm cốt lõi trong sứ mệnh của Liên Hiệp quốc. Đó là quan điểm về một cách tổ chức quản trị, theo đó mọi người, mọi định chế, tổ chức – công cũng như tư – trong đó có Nhà nước, phải phục tùng pháp luật. Đến lượt nó, pháp luật cần được công bố công khai, được thực thi một cách bình đẳng đối với mọi người, được áp dụng bởi tòa án độc lập, phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và các quy chuẩn về quyền con người. Nhà nước pháp quyền cũng đồng thời đòi hỏi bảo đảm thực thi các nguyên tắc ưu tiên về quyền bình đẳng và trách nhiệm trước pháp luật, các nguyên tắc về phân quyền, về sự tham gia của người dân và sự minh bạch trong hoạch định chính sách và trong các thủ tục pháp lý”3.

Tư duy pháp lý Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Tư duy pháp lý bao gồm các bộ phận hợp thành, gắn liền chặt chẽ với nhau, tương tác và hỗ trợ cho nhau là tư duy pháp lý về xã hội, con người, quyền con người, chính trị, Nhà nước, pháp luật, dân chủ và tư duy pháp lý về những vấn đề khác. Tư duy pháp quyền là tư duy trung tâm, xuyên xuốt tư duy pháp lý4.

Đổi mới tư duy pháp lý tức là đổi mới sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, đổi mới quá trình nhận thức, đổi mới hoạt động tư duy về những vấn đề pháp lý nẩy sinh trong quá trình phát triển xã hội, để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước nói chung. Kết quả của đổi mới tư duy pháp lý là hình thành nên nhận thức pháp lý mới, quan điểm pháp lý mới, ý tưởng về giải pháp pháp lý mới để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Đó là tư duy pháp lý mới, tư duy pháp lý sáng tạo. Trung tâm của đổi mới tư duy pháp lý là đổi mới tư duy pháp quyền5.

Đổi mới tư duy pháp lý là một bộ phận cấu thành quan trọng của đổi mới tư duy phát triển đất nước. Đổi mới tư duy pháp lý gắn liền chặt chẽ với đổi mới tư duy tổng thể về đổi mới, phát triển đất nước, với đổi mới tư duy chính trị, đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tư duy về an ninh con người, đổi mới tư duy về quốc phòng, an ninh quốc gia, đổi mới tư duy về các vấn đề xã hội, đổi mới tư duy về môi trường, đổi mới tư duy về hợp tác và hội nhập quốc tế, đổi mới tư duy về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Phân biệt nguyên tắc pháp quyền và nhà nước pháp quyền: Rule of Law là một nguyên tắc ứng xử trong xã hội, một tinh thần pháp luật của xã hội công dân, một chế độ pháp luật công bằng và tự nhiên để bảo đảm quyền con người và chủ quyền Nhân dân, một sự cam kết mạnh mẽ giữa xã hội công dân và nhà nước để quy định phạm vi giới hạn quyền lực nhà nước, một cách thức để kiểm soát quyền lực nhà nước.

Rule of Law không đưa ra bất cứ mô hình nhà nước nào mà chỉ đòi hỏi bất cứ nhà nước nào thực hiện nguyên tắc Rule of Law đều phải tôn trọng công lý, pháp luật công bằng và quyền con người. Bản thân Nguyên tắc Rule of Law không phân biệt “Capitalisme Rule of Law” hay “Socialisme Rule of Law”. Cũng giống như Human Rights, Rule of Law không mang tính giai cấp và không nhằm tăng cường quyền lực nhà nước mà ngược lại, hạn chế quyền lực nhà nước, giới hạn quyền lực nhà nước để bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người, thực hiện nguyên tắc: nhà nước và cán bộ viên chức nhà nước chỉ được làm những việc pháp luật cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không ngăn cấm.

Pháp luật trong Rule of Law không phải là pháp luật do nhà nước đặt ra mà phải là pháp luật tự thân, phản ánh những yêu cầu và quy luật tự nhiên, khách quan, các văn bản Luật là sự ghi chép lại, phản ánh lại những quy tắc xử sự đương nhiên của cuộc sống đòi hỏi phải có để điều chỉnh, F.Anghen cũng đã từng khẳng định về bản chất của pháp luật phải là như vậy. Trong một chế độ dân chủ, pháp luật trong Rule of Law là công cụ của tự do cho con người chứ không phải là công cụ thống trị con người. Cốt lõi của Rule of Law là một xã hội công lý và nhân quyền, nhà nước chỉ là một phương tiện, công cụ để thực hiện công lý và bình đẳng, tự do, nhân quyền. Điểm nhấn mạnh của Rule of Law là pháp luật công bằng cho tất cả mọi người, là pháp luật tự nhiên, là công cụ của tự do chứ không phải là công cụ thống trị từ đó pháp luật trở thành tối thượng.

Bản thân Rule of Law không phải là một mô hình. Nhưng câu hỏi tiếp theo được đặt ra là: có thể xây dựng mô hình nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền Rule of Law hay không? Câu trả lời là: không những có thể mà còn rất cần thiết. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay đã có rất nhiều mô hình về lý thuyết và thực tiễn dựa trên nguyên tắc Rule of Law đã được đưa ra và được cuộc sống chấp nhận ở những mức độ nhất định.

Trong cuốn sách “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”, Ngân hàng Thế giới (WB) đã khái quát một số mô hình như: Nhà nước thể chế, Nhà nước kỹ trị, Nhà nước phúc lợi, Nhà nước tương xứng với năng lực, Nhà nước viện trợ…Trong cuốn sách này Ngân hàng Thế giới đưa ra nhiều yêu cầu cơ bản của Rule of Law như: cần nhận thức lại vai trò của nhà nước trên toàn cầu, đó không phải là nhà nước cai trị mà là nhà nước phục vụ; cần xây dựng lại các thể chế cho một nhà nước có năng lực; cần giảm thiểu và kiềm chế sự độc đoán chuyên quyền của nhà nước và nạn tham nhũng…

Với sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và cuộc cách mạng 4.0, đã có rất nhiều mô hình nhà nước lấy nguyên tắc phục vụ nhân dân của Rule of Law với những thuật ngữ đưa ra gắn với các mô hình nhà nước, như: Chính phủ mở (Open Govermenment), Chính phủ số (Digitent Govermenment), Dân chủ trên không gian mạng (Teledemocracy)…

Thực tiễn sôi động của nửa cuối thế kỷ XX và 20 năm đầu thế kỷ XXI có những mô hình được định hình và áp dụng tương đối phổ biến và đã thành công ở nhiều nước trên thế giới nhằm vào các tiêu chí trong sạch bộ máy, minh bạch hoạt động, cung cấp dịch vụ công và quyền lực được kiểm soát. Mô hình xây dựng một chính phủ “Liêm chính, kiến thiết quốc gia và hành động phục vụ Nhân dân” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu và khởi sướng tháng 11/1946 tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ mới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau này đó là xây dựng một “Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động phục vụ Nhân dân”. Hiện nay, mô hình này vẫn đang được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, một mô hình mới hơn đã xuất hiện, được sự cổ vũ của Liên Hiệp quốc (UNDP) và các thể chế tài chính quốc tế, đặc biệt là WB xem như là một điều kiện tiên quyết cho phát triển và trở thành nguyên tắc ngày càng mang tính phổ biến trong quản trị công đương đại. Đó là mô hình “Quản trị tốt và phòng, chống tham nhũng”, mô hình này của Rule of Law nhằm vào giảm thiểu điểm yếu căn bản nhất mang tính cố hữu của bộ máy nhà nước là lạm quyền và lợi dụng quyền lực để tham nhũng. Cốt lõi của mô hình này là các nguyên tắc pháp quyền Rule of Law phải được tôn trọng và thể hiện đầy đủ.

Hội đồng châu Âu (EC) xem xét “quản trị tốt” dựa trên 5 tiêu chuẩn, đó là: sự tham gia rộng rãi của người dân và toàn xã hội (Participations); sự công khai trong tổ chức và hoạt động của nhà nước(openness); trách nhiệm giải trình của nhà nước (Accountability); sự gắn kết và kiểm soát lẫn nhau trong tổ chức và hoạt động (Coherence) và tính hiệu quả (effectiveness). Mô hình này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của Rule of Law và “Công ước của Liên Hiệp quốc về phòng chống tham nhũng” UNCAC (United Nations Convention again Curuption) năm 2003. Đây là Công ước mà Việt Nam là một trong các quốc gia đầu tiên đưa ra sáng kiến và tham gia tích cực, đầy đủ 7 vòng đàm phán UNCAC, cũng là một trong các quốc gia đầu tiên ký UNCAC.

Dù theo mô hình nào thì các nguyên tắc pháp quyền Rule of Law cũng phải được thể hiện đầy đủ một số nội dung cơ bản ngay trong quá trình hình thành và vận động của mô hình ấy. Trong cuốn sách “Pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến” tập hợp các công trình nghiên cứu của 23 học giả có uy tín nước ngoài đã đưa ra một số nội dung cơ bản nhất sau đây: (1) Ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là nguyên tắc trung tâm hàng đầu của chế độ pháp quyền trong quản trị quốc gia. (2) Tính hợp hiến, hợp pháp và tính chính đáng của quyền lực nhà nước; giới hạn quyền lực nhà nước, hạn chế quyền lực nhà nước. (3) Pháp luật công bằng, thượng tôn pháp luật; tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm công lý. (4) Phân công, phân quyền, kiềm chế, đối trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước. (5) Xác định quyền chính trị của người dân (Political empowerment of people) bầu cử dân chủ, tư pháp độc lập, dân sự kiểm soát quân sự, tự do báo chí, bảo vệ quyền của thiểu số… (6) Sự minh bạch và trách nhiệm giải trình6. Như vậy, “Pháp quyền” Rule of Law và “Nhà nước pháp quyền” là 2 cụm từ, 2 khái niệm khác nhau.

Tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, tiếp đến, tư tưởng, học thuyết đó được đưa vào hiện thực xã hội, trở thành hiện thực nhà nước pháp quyền với các trình độ khác nhau ở các nước trên thế giới, đến một giai đoạn phát triển nhất định, tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền, hiện thực nhà nước pháp quyền trở thành một giá trị độc lập trong xã hội – giá trị nhà nước pháp quyền. Sự ra đời của giá trị đó đánh dấu một bước phát triển mới của Nhà nước trên tất cả các phương diện, đặc biệt tư duy về vị thế của pháp luật trong xã hội, trong cơ chế quyền lực chính trị, trong mối quan hệ với cá nhân.

Nhà nước pháp quyền gắn liền với các giá trị cao cả trong xã hội, đó là quyền con người, công lý, dân chủ, công bằng, tự do, đạo đức, văn minh, lợi ích hợp pháp, trật tự pháp luật và các giá trị xã hội khác. Đó là các giá trị pháp quyền cốt lõi phổ quát của xã hội đương đại, của xã hội loài người. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là hiện thân của người thể hiện, thực hiện và hiện thực hoá các giá trị đó trong xã hội. Các giá trị đó đã được ghi nhận, cụ thể hoá ở các mức độ khác nhau trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các văn kiện khác của Đảng.

Phương diện tư duy, nhận thức này đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm sao để trở thành hiện thân, thể hiện, thực hiện và hiện thực hoá từng bước, làm sâu sắc thêm và làm gia tăng các giá trị đó trong đời sống xã hội hiện thực, phục vụ sự phồn vinh, hạnh phúc của Nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động của chủ thể xã hội, hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp và hoạt động của toàn xã hội đều phải lấy các nguyên tắc pháp quyền làm tư tưởng chỉ đạo. Nguyên tắc pháp quyền là tiêu chí đánh giá trình độ pháp quyền trong hoạt động quản trị nhà nước. Theo đó, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, là giới hạn đối với quyền lực nhà nước và tồn tại khách quan đối với quyền lực nhà nước.

Nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước, công chức và viên chức nhà nước nói riêng đều bị ràng buộc bởi pháp luật, phải tuân thủ và chấp hành pháp luật. Tiêu chí pháp quyền để đánh giá về sự tuân thủ tinh thần và nội dung của Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước cũng như của các thiết chế chính trị, chính trị – xã hội, cộng đồng dân cư, công dân trong một nhà nước dân chủ và pháp quyền, trong một nền quản trị quốc gia; là nguyên tắc xử sự giữa các quốc gia theo các điều ước và thông lệ quốc tế.

Nội dung tiêu chí pháp quyền trong quản trị nhà nước

Một là, pháp luật phải chính xác, minh bạch, ổn định, kịp thời và được áp dụng chung, thể hiện các giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ.

Hai là, quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực của Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong giới hạn và bị kiểm soát, bị ràng buộc bởi các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đây là yếu tố cấu thành nguyên tắc pháp quyền về nội dung trong quản trị nhà nước. Bởi, đây là yếu tố thể hiện chủ quyền tối cao thuộc về Nhân dân. Quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và quyền lực của Nhà nước đều có nguồn gốc, ra đời, tồn tại và phát triển từ quyền lực của Nhân dân và do đó, bị giới hạn bởi quyền lực của nhân dân. Chính vì thế, Hiến pháp năm 2013 là phương tiện để Nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Đảng và Nhà nước.

Ba là, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Bốn là, pháp luật phải được mọi người tôn trọng, bảo vệ và thực thi trong hoạt động của Nhà nước cũng như của toàn xã hội bằng công tác tổ chức thi hành pháp luật. Xây dựng hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và duy trì hiệu lực, hiệu quả trên thực tế cần phải tổ chức thi hành pháp luật, từ tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật để bảo vệ pháp luật. Vì thế, pháp quyền chỉ có được nếu pháp luật được bảo vệ và được thực thi trong hoạt động của Nhà nước và xã hội.

Năm là, khi thực hiện quyền tư pháp, tòa án xét xử độc lập, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quyền tư pháp độc lập với tư cách là một yếu tố cấu thành nguyên tắc pháp quyền. Toà án cần phải độc lập, người xét xử mới đưa ra các tài phán vô tư, vì công lý, công bằng, vì quyền con người, quyền công dân. Tất cả các nội dung nguyên tắc pháp quyền nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất, cấu thành nguyên tắc pháp quyền.

Trong nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội, hoạt động lập hiến, lập pháp, hoạt động hành pháp, hoạt động tư pháp và hoạt động của toàn xã hội đều phải lấy các nguyên tắc pháp quyền làm tư tưởng chỉ đạo. Không tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không còn là nhà nước pháp quyền trong các hoạt động thực tiễn. Vì thế, các nguyên tắc pháp quyền nói trên là các tiêu chí đánh giá trình độ pháp quyền trong quản trị nhà nước, trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Theo Liên Hiệp quốc, pháp quyền là một nguyên tắc quản trị của các quốc gia dân chủ và pháp quyền, đồng thời là một nguyên tắc quản trị trong các mối quan hệ quốc tế. Trong một nhà nước mà tất cả mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế công và tư, kể cả nhà nước đều thượng tôn pháp luật, được công bố công khai, được thực thi và áp dụng bình đẳng trong thực tế và được tài phán một cách độc lập, phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế là điều kiện rất cơ bản để mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển mối quan hệ giữa các quốc gia không những về chính trị mà cả về kinh tế và các lĩnh vực khác. Tiêu chí pháp quyền được đề cao và thực hiện trên thực tế của mỗi quốc gia trong điều kiện ngày nay trở thành lòng tin và sự lựa chọn trong quan hệ quốc tế.

Một số thách thức trong áp dụng tiêu chí pháp quyền trong đánh giá tính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả trong quản trị nhà nước ở Việt Nam

Việc quy định về Hội đồng Hiến pháp – thiết chế hiến định độc lập mà hầu hết các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu pháp lý đều cho rằng có vai trò và hiệu lực giám sát quyền lực cao nhất trong việc thực hiện của ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp đã không được đưa vào Hiến phápkhi sửa đổi, bổ sung năm 2013. Bên cạnh đó, các biện pháp giám sát phản biện trong Luật Mặt trận Tổ quốc năm 20157Luật Công đoàn còn yếu và chưa có cơ chế đủ mạnh để thực hiện chức năng giám sát cả về đối tượng, nội dung và hình thức giám sát đối với việc thực hiện QLNN trong hoạt động quản trị nhà nước.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định cần phải tăng cường “kiểm soát quyền lực bằng pháp luật”8 để thấy rằng còn những tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về kiểm soát quyền lực.

Vấn đề bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 vẫn là sự thiếu vắng những quy định hiệu lực trực tiếp của các quyền hiến định. Điều này khiến cho nhiều quyền quan trọng, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị về tự do lập hội, hội họp, biểu tình, quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu dân ý… sẽ phải đợi Quốc hội ban hành luật để cụ thể hóa, sau đó có thể phải đợi Chính phủ ban hành các nghị định để hướng dẫn thi hành mới có thể thực hiện được. Hiện tại,chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng và hiệu quả cho việc bảo vệ các quyền Hiến định. Điều này thể hiện ở chỗ, khi thảo luận về sửa đổi Hiến pháp, các cơ quan trong hệ thống lập pháp đã đề cập tới việc thành lập Hội đồng Hiến pháp hay Tòa Bảo hiến nhưng cuối cùng cả hai phương án này đều không được thành lập, chính vì vậy, trong cơ chế bảo đảm quyền cơ bản của công dân đã làm hạn chế khả năng ngăn ngừa, xử lý hậu quả của những văn bản và quyết định vi phạm các quyền Hiến định của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp khi ban hành hoặc có thể xảy ra.

Bên cạnh đó, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay còn nhiều bất cập do việc giải quyết khiếu nại được tổ chức theo cơ chế khép (khiếu nại, tố cáo do chính cơ quan bị khiếu nại, tố cáo hoặc cơ quan cấp trên của cơ quan đó giải quyết), còn hệ thống tư pháp bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi bị xâm hại được tổ chức là cơ quan độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhưng trên thực tế để bảo đảm tính độc lập, cũng như khả năng ra phán quyết đối với những bản án, quyết định nhiều khi không được xử lý khách quan, công bằng, đây là một trong những khó khăn, thách thức lớn của nền tư pháp khi hội nhập.

Quy định về bảo vệ an ninh quốc gia trong Hiến pháp năm 2013 và những quy định cấm còn quá rộng về hành vi lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 14, Điều 15 Hiến pháp năm 2013) là những thách thức cho việc thực hiện quyền lực của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Hiến pháp là đạo luật gốc được xây dựng như một nền tảng cơ sở pháp lý khẳng định người dân là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước trong việc việc xác lập, trao quyền và đề ra những cơ chế để kiểm soát hoạt động của nhà nước do mình lập ra. Khuôn khổ pháp lý về thực hiện dân chủ (như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân) tuy đã có, nhưng chứa đựng nhiều quy định chưa phù hợp với thực tiễn, ví dụ như các quy định về ứng cử, đề cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử…

Một số giải pháp áp dụng tiêu chí pháp quyền trong đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản trị nhà nước ở Việt Nam

Tiêu chí pháp quyền được áp dụng trong quản trị nhà nước ở Việt Nam bao gồm các yếu tố: thượng tôn pháp luật (mọi chủ thể trong xã hội, bao gồm cả Nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật), công khai, ổn định, phải được áp dụng chung và tổ chức thi hành bởi Nhà nước; quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và quyền lực nhà nước được tổ chức và hoạt động không giới hạn và bị kiểm soát, bị ràng buộc bởi các quy định của Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật; phân quyền (giữa các nhánh quyền lực nhà nước) và bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; toà án xét xử độc lập, bảo vệ công lý. Cơ chế vận hành hệ thống chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Để áp dụng hiệu quả tiêu chí pháp quyền trong quản trị nhà nước ở Việt Nam có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng cao, nâng cao chất lượng quản trị trong xây dựng pháp luật để từng giai đoạn xây dựng pháp luật phải tuân thủ quy trình, bảo đảm các yếu tố năng lực, trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng pháp luật. Cùng với đó là tổ chức thi hành pháp luật hiệu quả, xây dựng Luật Tổ chức thi hành pháp luật để chuẩn hoá quy trình làm cho pháp luật được triển khai vào trong đời sống xã hội. Kiểm soát quyền lực bằng pháp luật phải được xác định và thực thi một cách nghiêm minh trong xã hội,

Thứ hai, Quốc hội tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng pháp luật, trong hoạt động giám sát tối cao cũng như quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Trong hoạt động của Quốc hội, việc tuân thủ và thượng tôn các thủ tục hoạt động nghị trường của Quốc hội có vai trò đặc biệt quan trọng. Các thủ tục nghị trường được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, chẳng những bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội dân chủ; phát huy trí tuệ của đại biểu Quốc hội; chất lượng lập pháp, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước được nâng cao, mà còn là tiêu chí đánh giá Quốc hội có tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền hay không; kiểm soát và định ra những nguyên tắc trong uỷ quyền lập pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, bảo đảm cho Chính phủ và chính quyền địa phương tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; phát huy được sự năng động, kiến tạo, liêm chính trong việc thực hiện quyền hành pháp. Tổ chức hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội, tạo động lực khuyến khích mọi chủ thể trong xã hội phát huy vai trò của mình. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thanh tra để sớm phát hiện các biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong hoạt động hành pháp. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật mới thông qua chức năng lập quy và chức năng soạn thảo, trình Quốc hội các dự án luật, hoặc trình các nghị quyết trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Thứ tư, các cơ quan tư pháp trong việc tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, cải cách tư pháp, bảo đảm tòa án xét xử theo đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, của viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra. Đặc biệt, lãnh đạo triệt để tuân thủ nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tuân thủ quy định nguyên tắc tranh tụng nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đảng chỉ lãnh đạo mà không chỉ đạo và can thiệp vào các vụ án cụ thể.

Thứ năm, tiếp tục “xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội”9, thông qua công tác tổ chức thi hành pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đánh giá hiệu quả pháp luật thông qua bảo đảm tính pháp quyền.

Thứ sáu, bảo đảm cơ chế tham gia của các chủ thể khác nhau trong xã hội với trách nhiệm và chủ động (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, công dân, tổ chức quốc tế), pháp luật minh bạch, rõ ràng ở tất cả các các khâu từ đánh giá chính sách, pháp luật, xây dựng, tổ chức thực thi, cùng chịu trách nhiệm đều được thực hiện dưới nguyên tắc pháp quyền.

Chú thích:
1. Black’s law dictionary 10th, Edition by Bryan A. Garner, tr. 692.
2. Nguyên tắc pháp quyền và việc tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. https://tapchicongsan.vn, ngày 02/12/2020.
3. The Rule of Law and Transitional Justice in Conflic and Post – conflict Societies. UN Security Coucil S/2004/616, 23 August 2004, Part III 6.
4. Võ Khánh Vinh. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 6/2022.
5. Võ Khánh Vinh. Về quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Báo Nhân dân, số ra ngày 16/7/2022.
6. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái và Vũ Công Giao. Chủ nghĩa hợp hiến: Về pháp quyền và chủ nghĩa Hiến pháp. H.NXB Lao động xã hội, 2012.
7. Xem: Điều 25-27 Luật Mặt trận Tổ quốc năm 2015.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
9. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh
Học viện Hành chính Quốc gia