Xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả

(Quanlynhanuoc.vn) – Thuật ngữ “quản trị quốc gia” lần đầu tiên được chính thức sử dụng trong Văn kiện Đại hội của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả”1. Bài viết phân tích quản trị quốc gia trên các khía cạnh: Phải hiểu thế nào là quản trị quốc gia? Nội hàm của quản trị quốc gia là gì? Yêu cầu ra sao? Từ đó đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ công chức của nền hành chính công vụ trong quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả.
Ảnh minh họa (toquoc.vn).
Quản trị quốc gia – quan niệm, nội hàm và thực hiện ở Việt Nam

Quản trị quốc gia là một thuật ngữ mới được đưa vào Văn kiện Đại hội XIII và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 của Đảng. Trong đó, nhấn mạnh việc đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Điều đó chứng tỏ Đảng ta xác định quản trị quốc gia đã hiện hữu ở Việt Nam, dù chưa hoặc ít được nêu ra và bây giờ cần tiếp tục đổi mới vấn đề này.

Trước đây, khi thực hiện nhà nước chuyên chính vô sản và cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, thực ra chúng ta cũng đã thực hiện việc quản trị quốc gia. Tuy nhiên, tư duy và cách thức quản trị quốc gia khi đó cơ bản nhấn mạnh nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước. Theo đó, Nhà nước thực hiện trách nhiệm và quyền hạn được giao trên mọi phương diện của đời sống, như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… Vai trò của Nhân dân, cộng đồng, các tổ chức ngoài nhà nước… được phát huy chủ yếu dưới góc độ giám sát, với mục tiêu góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước. Trong các văn bản pháp luật cũng như hoạt động thực tiễn đều chủ yếu đề cập nhiều đến vấn đề “quản lý nhà nước”, còn thuật ngữ “quản trị quốc gia” hầu như ít được đề cập. Từ đó, chế độ công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức cũng được xây dựng với các yêu cầu phù hợp, tương thích dưới góc độ “quản lý nhà nước”.

Trải qua quá trình chuyển đổi, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền dân chủ XHCN, để có thể tập trung được mọi nguồn lực, phát huy mọi thế mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội nhằm phát triển đất nước trong sự ổn định, tham gia hội nhập quốc tế, nhất thiết phải chuyển từ quản lý nhà nước đơn thuần sang “quản trị quốc gia”. Quản trị quốc gia cần phải được tiếp cận từ tư duy, để xác định rõ quan niệm, yêu cầu và nội hàm trong điều kiện hiện nay, trên cơ sở đó hoàn thiện chế độ công vụ và xây dựng, quản lý đội ngũ công chức có đủ số lượng, chất lượng phù hợp.

Qua nghiên cứu, có thể thấy quản trị quốc gia hiện nay yêu cầu tư duy, được hiểu và mở rộng hơn so với quản lý nhà nước. Không nên hiểu đơn giản quản trị quốc gia cũng là quản lý nhà nước. Khái niệm quản trị quốc gia dù còn nhiều tranh luận, với các cách hiểu khác nhau nhưng vẫn rất cần thiết phải có một quan niệm thống nhất, từ đó triển khai và thực hiện thành công chủ trương của Đảng tại Đại hội XIII và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”2.

Qua nghiên cứu, có thể quan niệm: Quản trị quốc gia là cách thức tổ chức và quản lý quyền lực của một quốc gia với vai trò trụ cột của Nhà nước, phát huy trách nhiệm của chính quyền địa phương, sự tham gia tích cực của công dân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội, nhằm phát triển kinh tế-xã hội, giữ gìn an ninh-quốc phòng, bảo vệ lợi ích của đất nước và Nhân dân.

Các nguyên tắc của quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả gồm:

(1) Sự tham gia rộng rãi của người dân, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp…

(2) Bảo đảm tính pháp quyền toàn diện, thượng tôn pháp luật và đề cao trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức, công dân khi tham gia các hoạt động quản trị quốc gia.

(3) Bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, của chính quyền địa phương, các tổ chức hoạt động trong khu vực dịch vụ công.

(4) Mọi hoạt động thuộc nội dung của quản trị quốc gia phải đáp ứng kỳ vọng và sự hài lòng của người dân và xã hội ở mức cao.

(5) Mở rộng hợp tác và quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế và vai trò của quốc gia trên trường quốc tế, trong tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.

(6) Thực hiện quản trị quốc gia cuối cùng phải bảo đảm được sự đồng thuận và công bằng xã hội, phát triển bền vững, ổn định.

Trong thời đại phát triển và hội nhập mạnh mẽ hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia không chỉ đơn thuần dựa vào mỗi chủ thể Nhà nước mà còn phải phát huy vai trò của các tổ chức doanh nghiệp, công dân và các tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội… Để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước, thực hiện được đầy đủ các quyền lợi của người dân thì quản trị quốc gia phải tập hợp, thu hút được mọi nguồn lực từ tài chính, đất đai, công nghệ,… không chỉ từ phía Nhà nước mà còn từ mọi người dân, từ khu vực doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các hội, hiệp hội, quỹ… Đồng thời, quản trị quốc gia còn yêu cầu Nhà nước phải điều hòa, cân bằng và chia sẻ được các lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội và phát huy vai trò, trách nhiệm của các cộng đồng, vùng miền, địa phương. Nhất là trước các vấn đề về môi trường, dịch bệnh, thiên tai, địch họa thì quản trị quốc gia sẽ là phương thức, cách thức mang lại hiệu quả hơn so với thực hiện quản lý nhà nước. Qua đó, không chỉ Nhà nước mà mọi tổ chức, công dân cũng sẽ thấy sự hiện diện của mình trong quá trình vận hành, phát triển quốc gia.

Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau đường lối, cương lĩnh và chủ trương là vấn đề quản trị quốc gia. Quản trị quốc gia được thể hiện qua trách nhiệm quản lý, triển khai của Nhà nước và trách nhiệm tham gia xây dựng, thực hiện, bảo vệ, duy trì, phát triển đất nước của mọi người dân, mọi chủ thể khác trong xã hội với vai trò trụ cột của Nhà nước.

Hiện nay, chúng ta đang xây dựng 3 trụ cột để phát triển đất nước là: (1) Nhà nước pháp quyền XHCN; (2) Kinh tế thị trường định hướng XHCN; (3) Nền dân chủ XHCN với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội làm nòng cốt”3. Trong điều kiện và bối cảnh này, quản trị quốc gia yêu cầu cần phải xác định được rõ ràng vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức ngoài Nhà nước, như: doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội và người dân trong quá trình phát triển, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Trong đó, Nhà nước phải cụ thể hóa tầm nhìn, định hướng phát triển; hoàn thiện thể chế, kiến tạo “luật chơi, sân chơi và người chơi” phù hợp với tiến trình phát triển quốc gia.

Quản trị quốc gia hướng đến mục tiêu hiện đại, hiệu quả nghĩa là bộ máy nhà nước phải được tổ chức tinh gọn hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, chú trọng vai trò định hướng, điều tiết, thiết lập tầm nhìn phát triển. Các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước cần phải có tư duy của chủ thể, trụ cột quản trị quốc gia, hướng đến mục tiêu quản trị hiệu quả.

Tầm nhìn quản trị quốc gia phải được cụ thể theo các cấp độ quản trị chiều dọc, chiều ngang; từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã cho tới các ngành, các lĩnh vực; phải bảo đảm tính kết nối và liên thông, gắn với từng địa bàn đơn vị hành chính, là những vec-tơ cùng chung một hướng tới quản trị quốc gia. Tính hiện đại, hiệu quả của quản trị quốc gia còn thể hiện ở hoạt động của các tổ chức hội, hiệp hội, doanh nghiệp và người dân. Các hoạt động này không chỉ dừng lại ở giám sát, kiểm tra, phản biện mà còn mở rộng ra dưới các hoạt động tham gia đóng góp nguồn lực, tham gia hoạch định chính sách, thậm chí trực tiếp thực hiện các mục tiêu phát triển. Đồng thời, cùng tập trung triển khai, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và hiện đại hóa các phương tiện, thiết bị làm việc; tổng hòa các hoạt động với mục tiêu bảo đảm tính hiện đại, hiệu quả.

Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam,… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Mọi hoạt động của Nhà nước và mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội đều dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, để thực hiện được tốt các nội dung của quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, cần thiết nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với bối cảnh và điều kiện mới, phù hợp với đặc điểm của quản trị quốc gia. Bên cạnh đó, cần chú ý các nội dung sau:

Một là, bộ máy nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương phải được tổ chức tinh gọn; chức trách, nhiệm vụ quyền hạn phải được quy định và thực hiện rõ ràng, minh bạch. Bên cạnh đó, cần tập trung đổi mới chế độ công vụ, công chức theo vị trí việc làm.

Hai là, huy động được mọi nguồn lực vào sự phát triển của đất nước, không chỉ là ngân sách, tài chính mà còn các nguồn lực khác, như: nhân lực, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm, tri thức,… Các hoạt động của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

Ba là, thu hút và trọng dụng nhân tài, không phân biệt quốc tịch, vùng miền, độ tuổi (đặc biệt cần tổng công trình sư cho từng lĩnh vực phát triển); nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bốn là, tạo điều kiện để mọi công dân, mọi tổ chức hội, hiệp hội, các doanh nghiệp cùng tham gia, có trách nhiệm đối với mọi hoạt động, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh- quốc phòng… thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển quốc gia; nâng cao chất lượng y tế và hệ thống an sinh xã hội phục vụ Nhân dân.

Năm là, đẩy mạnh, mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế; tranh thủ và tiếp thu ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến; liên kết, hợp tác với các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo danh tiếng.

Vai trò của đội ngũ công chức trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả

Để thực hiện được mục tiêu, yêu cầu và các nội dung trong quản trị quốc gia, đội ngũ công chức có vai trò rất quan trọng. Công chức là nguồn lực có giá trị nhất, quyết định thành bại của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Năng lực, trình độ, trách nhiệm, tinh thần làm việc của công chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của quản trị quốc gia. Thời gian qua, công tác quản lý và xây dựng đội ngũ công chức đã không ngừng được đổi mới, cải tiến, chất lượng đội ngũ đã có những bước được nâng cao nhưng so với yêu cầu quản trị quốc gia thì còn có mặt hạn chế, chưa thể đáp ứng trong thực tiễn, như: có biểu hiện sợ trách nhiệm, né tránh công việc trong tham mưu xây dựng thể chế tại một số nơi; xử lý các bất cập chưa kịp thời, có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong công tác xây dựng pháp luật4; tình trạng công chức có xu hướng xin thôi việc, chuyển sang khu vực doanh nghiệp hoặc ngoài Nhà nước với nguyên nhân là tiền lương chưa đủ sống hoặc điều kiện làm việc, môi trường làm việc chưa hấp dẫn, thiếu động lực…

Nguyên nhân của những hạn chế:

Thứ nhất, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành và thực hiện, theo đó, cơ chế quản lý công chức của nước ta đã chuyển từ hệ thống chức nghiệp sang hệ thống việc làm kết hợp với tiêu chuẩn chức danh. Tuy nhiên, thực tế đến nay danh mục vị trí việc làm đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh và thống nhất, vẫn còn nhiều lúng túng. Danh mục vị trí việc làm mặc dù đã, đang được xây dựng nhưng vẫn mang tính hình thức, chưa sát với thực tiễn. Biên chế công chức vẫn được giao theo cung cách, phương thức như chế độ chức nghiệp trước đây, chưa thực sự gắn với vị trí việc làm và dựa trên vị trí việc làm.

Thứ hai, việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức theo vị trí việc làm vẫn chưa được thay đổi đầy đủ, toàn diện cho phù hợp. Còn xảy ra tình trạng nhiệm vụ chuyên môn được giao không phù hợp với vị trí tuyển dụng. Việc tuyển dụng công chức vẫn cơ bản dựa trên chỉ tiêu biên chế và chưa mạnh dạn phân cấp. Chế độ công vụ theo vị trí việc làm nhưng vẫn còn thi nâng ngạch, một vị trí vẫn có thể có từ 2 – 3 ngạch (chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp hoặc tương đương).

Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng vẫn đi theo lề lối cũ, chưa đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm, có trọng tâm, trọng điểm; đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu.

Thứ tư, chế độ, chính sách đãi ngộ, cải cách tiền lương vẫn chậm, chưa theo kịp với sự phát triển và tương thích với kinh tế thị trường, việc trả lương chưa gắn với vị trí việc làm…

Giải pháp xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả

Một là, thống nhất quản lý hệ thống danh mục vị trí việc làm.

Cần quy định phương pháp xác định vị trí việc làm để thực hiện thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phương. Vị trí việc làm, khung danh mục vị trí việc phải được quy định lại về thẩm quyền để bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Thống nhất theo nguyên tắc: các tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tương tự nhau thuộc các bộ, ngành và địa phương khác nhau thì Khung danh mục vị trí việc làm phải giống nhau, nghĩa là phải cùng chung một danh mục vị trí việc làm.

Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, việc Chính phủ giao cho các bộ, ngành và địa phương tự xác định Danh mục vị trí việc làm, tự thẩm định và tự phê duyệt vị trí việc làm của các tổ chức thuộc quyền quản lý là chưa khoa học. Dẫn đến hệ thống vị trí việc làm không được quản lý thống nhất. Cùng với Bộ Nội vụ, các bộ, ngành cũng ban hành các thông tư quy định trong ngành về vị trí việc làm. Vì vậy, việc quản lý vị trí việc làm cần phải được xem xét lại để làm căn cứ hoàn thiện, đổi mới toàn diện và đồng bộ chế độ công vụ, công chức. Trước mắt, cần nghiên cứu và cân nhắc lại về vấn đề quản lý vị trí việc làm; quan niệm về “vị trí việc làm dùng chung”,… Nên tư duy tiếp cận theo hướng: “chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức là cơ sở để xác định danh mục vị trí việc làm, do đó, các tổ chức có chức năng, nhiệm vụ giống nhau thì phải cùng một danh mục vị trí việc làm”.

Từ đó, Chính phủ (trực tiếp là Bộ Nội vụ) xây dựng và quy định danh mục vị trí việc làm cho các tổ chức thuộc bộ, ngành, địa phương để thực hiện thống nhất trong cả nước. Ví dụ: Sở Nội vụ ở các tỉnh đều giống nhau về chức năng, nhiệm vụ thì đương nhiên danh mục vị trí việc làm phải giống nhau. Cho nên, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có danh mục vị trí việc làm như nhau. Do phạm vi quản lý, đối tượng phục vụ, khối lượng công việc của Sở Nội vụ giữa các tỉnh, thành phố là không giống nhau, cho nên số lượng biên chế có thể khác nhau.

Hai là, đẩy mạnh phân cấp quản lý biên chế.

Biên chế cán bộ, công chức được xác định trên cơ sở danh mục vị trí việc làm, số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào phạm vi quản lý, khối lượng công việc, tổ chức lao động của từng cơ quan, tổ chức. Để phát huy vai trò tự quản của chính quyền địa phương, cần thiết đẩy mạnh phân cấp quyền quyết định biên chế cho chính quyền địa phương theo hướng:

– Biên chế các cơ quan trung ương do một cấp quản lý thống nhất và quyết định.

– Biên chế địa phương được phân cấp cho chính quyền địa phương tự quyết định để phát huy tính tự quản, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Theo cách tiếp cận trên, việc phân cấp giao quyền quyết định biên chế sẽ là:

(1) Biên chế các cơ quan nhà nước ở Trung ương do Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

(2) Biên chế các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể do Ban Tổ chức Trung ương trình Ban Bí thư quyết định.

(3) Biên chế của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phân cấp do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Ngoài ra, thay đổi tư duy về giao và phân bổ kinh phí: cấp có thẩm quyền không giao kinh phí cho các đơn vị, tổ chức theo số lượng biên chế được phê duyệt mà chuyển sang giao kinh phí theo nhiệm vụ và kế hoạch công việc được giao hằng năm. Bãi bỏ các thuật ngữ “biên chế tối thiểu, biên chế tối đa”, theo vị trí việc làm thì biên chế luôn là một hằng số, không thể có biên chế tối thiểu, biên chế tối đa. Về tinh giản biên chế, cần thực hiện đúng với tư tưởng và các nhiệm vụ, giải pháp đã quy định tại Nghị quyết số 39 ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đưa những người không làm được việc ra khỏi đội ngũ để tuyển dụng thực tài cho nền công vụ.

Ba là, đẩy mạnh phân quyền, phân cấp quản lý công chức.

Theo đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý đội ngũ công chức chỉ nên quy định hoặc quyết định một số nội dung, như:

– Quy định danh mục vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối với các tổ chức có tính đặc thù, riêng biệt thì cơ quan quản lý công chức phải xây dựng và trình Chính phủ (hoặc giao Bộ Nội vụ) quyết định.

– Quy định tiêu chuẩn chung đối với công chức và các chức danh lãnh đạo, quản lý trong công vụ.

– Quy định cơ chế tuyển dụng công chức theo hướng: (1) Công dân muốn trở thành công chức phải qua kiểm tra chất lượng đầu vào; (2) Giao quyền tuyển dụng công chức cho các đơn vị trực tiếp sử dụng và chịu trách nhiệm về chất lượng đội ngũ công chức; (3) Thực hiện chế độ công chức hợp đồng song song với chế độ tuyển dụng lâu dài (hay còn gọi là tuyển dụng suốt đời).

– Phân cấp trong phạm vi nhất định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, khen thưởng công chức.

– Quy định chế độ tiền lương theo vị trí việc làm, chế độ phụ cấp, đãi ngộ khác.

Còn lại, các thẩm quyền khác như tuyển dụng, hợp đồng, bổ nhiệm ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, trả lương, đãi ngộ cần phân cấp hoặc giao cho cấp trực tiếp sử dụng công chức quyết định.

Bốn là, thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức.

Căn cứ Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định Khung các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài để các bộ, ngành và địa phương cụ thể hóa và triển khai thực hiện. Theo đó, nhân tài phải được xác định với các tiêu chí cụ thể: có đức, có tài, có sản phẩm công trình sáng tạo được ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn. Bởi có nhận dạng nhân tài thì mới thực hiện được chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài. Cần có cái nhìn biện chứng trong từng lĩnh vực về nhân tài. Nhân tài trong lĩnh vực khoa học – công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật, thể thao khác với nhân tài trong lĩnh vực chính trị, lãnh đạo, quản lý.

Tư duy về nhân tài không chỉ thuần túy và hạn chế trong việc tìm từ nguồn nhân lực trẻ, không đơn giản lấy bằng cấp, học vị, độ tuổi làm tiêu chuẩn xác định nhân tài. Việc sử dụng, trọng dụng nhân tài cần đổi mới theo nguyên tắc bình đẳng, thực tài; không phân biệt độ tuổi, giới tính; dân tộc, vùng miền… trong tuyển dụng, bầu cử, bổ nhiệm, trọng dụng, quy hoạch. Kiên quyết thay thế nhân sự không làm được việc hoặc bè phái, mất đoàn kết, tiêu cực, nhũng nhiễu. Ngoài ra, người tiến cử, người giới thiệu phải chịu trách nhiệm về việc tiến cử, giới thiệu của mình.

Đổi mới công tác nhân sự, lựa chọn người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý ngoài việc tuân thủ nguyên tắc Đảng lãnh đạo, phát huy dân chủ ở cơ sở, phải lựa chọn được người xứng đáng có cả đức và tài, đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm (chức danh lãnh đạo, quản lý). Trong đó, lấy “đức” là điều kiện cần, làm gốc, làm căn bản, coi trọng tiêu chí “Liêm chính – Trách nhiệm – Tự trọng”; còn “tài” là điều kiện đủ, cần chú ý nhất việc quy tụ, đoàn kết, làm việc hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phòng, chống tình trạng chủ quan, duy ý chí, áp đặt, tiêu cực, không làm được việc phải bố trí người khác thay thế, không để xảy ra tình trạng “ôm ghế”. Không lấy tuổi làm điều kiện lựa chọn cán bộ mà lấy uy tín, sức khỏe, liêm chính, hiệu quả công việc làm căn cứ để lựa chọn, giới thiệu cán bộ (cán bộ ở đây là người được chọn theo cơ chế bầu cử).

Năm là, hoàn thiện cơ sở pháp lý, xây dựng và sửa đổi các quy định quản lý công vụ, công chức theo vị trí việc làm.

Sửa đổi Luật Cán bộ, công chức và xây dựng lại hệ thống các nghị định của Chính phủ, đó là cơ sở pháp lý để thực hiện các nội dung xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Thống nhất chế độ công vụ, không phân biệt cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn với cán bộ, công chức cấp huyện, cấp tỉnh trong thực hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức. Mọi quy định về tuyển dụng, phân công, đánh giá, phân loại, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, tiền lương,… đều được thực hiện trên cơ sở vị trí việc làm. Mỗi vị trí việc làm chỉ quy định một ngạch chức danh công chức, là điều kiện để xem xét bỏ thi nâng ngạch. Ai làm việc ở vị trí nào thì bổ nhiệm vào ngạch tương ứng và hưởng lương ở vị trí đó. Bổ sung vào quy trình tuyển chọn lãnh đạo, quản lý quy định: “cấp trưởng được giới thiệu cấp phó và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình”.

Người có phẩm chất, trình độ và năng lực, đã có kinh nghiệm và có sản phẩm, công trình, đề án sáng tạo được ứng dụng vào thực tiễn được xét tuyển thẳng vào công chức và hưởng lương theo vị trí việc làm. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở nhu cầu đăng ký của công chức; xác định yêu cầu về năng lực ngoại ngữ, tin học là công cụ để làm việc, không phải là tiêu chuẩn (trừ các vị trí việc làm đặc thù, như: biên – phiên dịch, công nghệ thông tin,…). Đánh giá công chức trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ ở vị trí việc làm đã được phân công và gắn với các sản phẩm, kết quả công tác, ý thức xây dựng đơn vị và đoàn kết, phối hợp công tác tốt.

Chú thích:
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn, ngày 26/02/2021.
2. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn, ngày 22/3/2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 173.
4. Phó Thủ tướng: Có biểu hiện sợ trách nhiệm, né tránh trong tham mưu xây dựng thể chế. https://tienphong.vn, ngày 06/9/2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Vũ Công Giao (chủ biên). Quản trị tốt và phòng, chống tham nhũng (sách chuyên khảo). H.NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019.
2. Hiến pháp năm 2013.
3. WB, World Development Report: “Governance and Development” (tạm dịch: Quản trị và phát triển), WashingtonDC, 1992.
4. UNDP: “Governance & Sustainable Human Development” (tạm dịch: Quản trị và phát triển con người bền vững), A UNDP Policy Document, 1997.
TS. Trần Anh Tuấn
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ