Hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo đảm an sinh xã hội là chính sách lớn của Đảng, Nhà nước nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển kinh tế, góp phần bảo vệ cuộc sống của người dân; tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh; quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước. Bài viết khái quát thực trạng, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình.
Tỉnh Ninh Bình luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo đảm an sinh xã hội. Ảnh: nbtv.vn.
Đặt vấn đề

Bảo đảm an sinh xã hội có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia và được coi là công cụ để xây dựng một xã hội phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa – xã hội. Ở Việt Nam, cùng với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội là một trong những nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, gồm các lĩnh vực về: việc làm, thu nhập và giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo đảm an sinh xã hội góp phần quan trọng tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.

Nhận thức được điều đó, những năm qua, tỉnh Ninh Bình đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo đảm an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị – xã hội tại địa phương. Nhờ đó, việc thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình đã đạt được những kết quả quan trọng. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII nhiệm kỳ 2020 – 2025 nhấn mạnh: “An sinh xã hội đảm bảo; giảm nghèo bền vững và giải quyết việc làm tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, đạt kết quả tốt”.

Cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình thời gian qua

Trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách bảo đảm an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước, tỉnh Ninh Bình đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương nhằm mở rộng diện bao phủ của an sinh xã hội. Chú trọng đến nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội như: người nghèo, nông dân, người già, trẻ em,…

Một là, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo việc làm cho người lao động.

Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã xây dựng Đề án số 10/ĐA-UBND ngày 18/11/2010 về đào tạo nghề tại tỉnh Ninh Bình đến năm 2020; Kế hoạch số 10/KH-UBND ngày 08/02/2018 về đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018 -2020. Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 05/7/2021 về thực hiện chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 79/KH-UBND ngày 20/4/2022 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025. Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 28/2017/NQ-HĐND ngày 06/7/2017 về đào tạo trình độ trung cấp và cao đẳng cho lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2018 – 2020…

Các chính sách về xúc tiến việc làm, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động được tỉnh triển khai có hiệu quả. Giai đoạn 2015 – 2020, tỉnh đã giải quyết việc làm trên 102.600 người (trung bình mỗi năm tạo việc làm cho trên 20.000 lao động), trong đó giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động 6.252 người (trung bình mỗi năm đưa trên 1.200 người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, vượt 25% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015 – 2020)1. Năm 2022, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 20.649 người lao động, trong đó đưa 1.750 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh giữ ổn định mức dưới 2%/năm.

Hai là, quan tâm hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo phù hợp với từng giai đoạn.

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 của Chính phủ, Ban Thường vụ tỉnh ủy Ninh Bình đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 26/11/2021 về giảm nghèo bền vững tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021 – 2025. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 91/KH-UBND ngày 10/5/2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Kế hoạch số 132/KH-UBND ngày 14/7/2022 về tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 –  2025. Theo công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 của tỉnh là 5,17%, thấp hơn so với thấp hơn bình quân chung của cả nước là 2,35%.

Ba là, triển khai đồng bộ cơ chế, chính sách BHXH, BHYT, BHTN.

Trên cơ sở Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Tỉnh ủy Ninh Bình đã xây dựng Chương trình hành động số 25-CTr/TU ngày 31/7/2018 về thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách BHXH. UBND tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 142/KH-UBND ngày 17/8/2022 về thực hiện Quyết định số 546/QĐ-TTg ngày 29/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao chỉ tiêu thực hiện bao phủ bảo hiểm y tế giai đoạn 2022 – 2025 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Công văn số 776/UBND-VP6 ngày 21/10/2022 về việc tăng cường thực hiện chính sách BHYT, bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh. HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 61/2022/NQHĐND ngày 27/10/2022 về việc quy định hỗ trợ kinh phí đóng BHYT đối với một số nhóm đối tượng có đăng ký thường trú trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Những cơ chế, chính sách trên đã đưa tỷ lệ bao phủ BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh tăng lên. Theo báo cáo của BHXH tỉnh Ninh Bình, tính đến tháng 6/2023, trên địa bàn tỉnh có 159.395 người tham gia BHXH, đạt 30,7% lực lượng lao động trong độ tuổi; 920.217 người tham gia BHYT, đạt 91,04 % dân số.

Bốn là, công tác trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội được quan tâm.

UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành Kế hoạch số 66/KH-UBND ngày 07/6/2017 thực hiện Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030”; Kế hoạch số 104/KH-UBND ngày 19/10/2020 về thực hiện Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021 – 2030 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Kế hoạch số 52/KH-UBND ngày 12/4/2021 về thực hiện Chương trình trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, trẻ em tự kỷ và người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021 – 2030. Vì vậy, công tác trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm triển khai hiệu quả, bảo đảm đúng, đủ, kịp thời, nhất là việc hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-CP của Chính phủ. Ngoài ra, tỉnh cũng quan tâm đến hoàn thiện cơ chế, chính sách về cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sách, vệ sinh môi trường và thông tin để bảo đảm cuộc sống cho người dân.

Tuy nhiên, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh, còn tư tưởng trông chờ vào cơ chế, chính sách của cấp trên, dẫn đến thiếu chủ động trong việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù sát điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh. Điều đó được thể hiện trên các khía cạnh sau:

Một là, chưa có cơ chế, chính sách đột phá để tạo việc làm cho người lao động. Việc xây dựng cơ chế, chính sách phục vụ điều tra, khảo sát, nắm bắt thông tin liên quan đến nhu cầu việc làm chưa được triển khai một cách khoa học, thường xuyên, nhất là cơ chế, chính sách phối hợp giữa doanh nghiệp và các trung tâm giới thiệu việc làm. Vì vậy, nhiều lao động, nhất là lao động ở nông thôn chưa có việc làm ổn định, hoặc không có việc làm.

Hai là, chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để chấm dứt tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN, do đó, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia BHXH, BHTN còn thấp.

Ba là, việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách trợ giúp xã hội ở Ninh Bình còn một số hạn chế nhất định, phạm vi bao phủ của các chính sách còn hạn hẹp; quy trình thủ tục, hồ sơ xét hưởng trợ cấp xã hội tuy đã được công khai song còn phức tạp, còn có những rào cản khi tiếp cận chính sách. Việc tiếp cận thông tin về chính sách còn khó khăn, nhất là ở vùng miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.

Bốn là, cơ chế, chính sách giảm nghèo còn mang tính chung chung chưa sát với từng vùng cụ thể. Tỉnh Ninh Bình đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, nhất là sự chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở các xã vùng miền núi, đồng bào dân tộc. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều, chưa thật vững chắc, vẫn còn tình trạng tái nghèo, phát sinh hộ nghèo còn lớn ở vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, vùng đồng bào dân tộc thiểu số như ở huyện Gia Viễn, Nho Quan.

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo việc làm để bảo đảm thu nhập cho người dân.

UBND tỉnh cần chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường sức lao động, mở rộng diện bao phủ và hiệu lực ra khu vực phi chính thức và khu vực nông nghiệp; xây dựng các chính sách hỗ trợ, tạo việc làm và an sinh xã hội cho các nhóm lao động yếu thế và dễ bị tổn thương. Đổi mới về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử dụng, đánh giá với đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng các cơ chế, chính sách hướng đến thị trường sức lao động công bằng và hiệu quả thông qua cơ chế “ba bên” (chính quyền địa phương, người sử dụng lao động và người lao động) và đối thoại xã hội.

Nghiên cứu, xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm; xây dựng chương trình việc làm cho người cao tuổi. Phát triển hệ thống thị trường sức lao động để gắn kết đào tạo và sử dụng lao động; “nâng cao năng lực hệ thống dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động, gắn với đẩy mạnh giải quyết việc làm, ban hành chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi xuất khẩu lao động”2.

Ban hành các quy định về phân luồng sau trung học cơ sở, trung học phổ thông và liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Có chính sách để “Thực hiện đào tạo, đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tăng cường gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và việc làm bền vững”3. Xây dựng cơ chế liên kết, phối hợp giữa các cơ sở đạo tạo nghề trong và ngoài tỉnh để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm; phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền trong việc tuyên truyền, điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề và tổ chức đào tạo nghề  bảo đảm hiệu quả.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để mở rộng diện bao phủ của BHXH, BHYT, BHTN.

Cần tăng cường sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương trong tỉnh để thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT, BHTN, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN và tuân thủ các quy định của pháp luật. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị – xã hội và Nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội về chính sách BHXH, BHYT, BHTN; tổ chức tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT.

Thể chế hóa các chủ trương, chính sách BHXH, BHYT, BHTN của Đảng, Nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh. UBND, HĐND cần xây dựng, ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện BHXH, BHYT, BHTN sát với đặc điểm của tỉnh. Có chính sách trợ giúp các đối tượng yếu thế tham gia BHXH, BHYT để mở rộng các đối tượng tham gia, khuyến khích người dân tham gia BHXH, BHYT tự nguyện, nhất là người dân ở khu vực phi chính thức, hướng tới mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội toàn dân.

Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa BHXH với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Y tế, Công an trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về BHXH, BHYT, BHTN, xử lý nghiêm các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi BHXH, BHYT; đồng thời, xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện cơ quan thực hiện BHXH, BHYT, BHTN nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách. Giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN cho người dân.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trợ giúp xã hội đáp ứng được nhu cầu an sinh của người dân.

Tỉnh cần xây dựng cơ chế, chính sách, từng bước mở rộng và nâng mức trợ giúp xã hội để bảo đảm an sinh cho người dân. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS… Rà soát, điều chỉnh và bổ sung đối tượng, mức trợ giúp xã hội theo đúng quy định trong từng giai đoạn và theo mục tiêu của Kế hoạch số 66/KH-UBND thực hiện Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030” tỉnh Ninh Bình. Tổ chức quán triệt, triển khai, thực hiện kịp thời, hiệu quả các văn bản hướng dẫn về trợ giúp xã hội trên địa bàn tỉnh.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách trợ giúp xã hội đột xuất, chính sách phát triển dịch vụ trợ giúp khẩn cấp. Có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội tham gia trợ giúp xã hội đột xuất; lồng ghép với các chính sách, chương trình liên quan (phát triển nông thôn mới, việc làm, giảm nghèo bền vững, phòng, chống và giảm tác hại của biến đổi khí hậu) với phát triển các hình thức bảo hiểm (bảo hiểm sản xuất, bảo hiểm tài sản, con người) ở các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt, tác động của biến đổi khí hậu. Tăng cường phân cấp quản lý cho địa phương và huy động Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực huy động trợ giúp xã hội đột xuất.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững.

Tỉnh cần tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương, chính sách giảm nghèo của Đảng, Nhà nước, ra soát, điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng hộ nghèo trên địa bàn. Xây dựng chính sách hỗ trợ bộ phận người nghèo có việc làm, tăng thu nhập, có khả năng vươn lên thoát nghèo, người mới thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo, người dân tộc thiểu số. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 và Nghị quyết số 23/2020/NQ-HĐND ngày 27/5/2020 của HĐND quy định chính sách hỗ trợ các đối tượng thuộc hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách theo dõi, giám sát và đánh giá các chương trình giảm nghèo; ban hành bộ chỉ số theo dõi, giám sát nghèo đói một cách đơn giản, khả thi và hướng dẫn quy trình thu thập thông tin, xử lý thông tin tương ứng. Thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá, mang tính hệ thống các chính sách giảm nghèo của tỉnh để bảo đảm đời sống cho người nghèo, giúp họ vươn lên thoát nghèo. Kịp thời bổ sung, sửa đổi những chính sách qua thực hiện thấy bất hợp lý, không phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại ở từng nhóm đối tượng, từng địa bàn; có các chính sách giảm nghèo chung, có chính sách giảm nghèo đặc thù cho từng vùng khó khăn, nhóm người nghèo khu vực miền núi, người nghèo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội; sắp xếp lại các chính sách giảm nghèo để ứng phó được với các thách thức hiện nay, như: chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn; nghèo liên quan đến khủng hoảng kinh tế; nghèo do tác động của di dân, tái định cư. Điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung chính sách tín dụng ưu đãi từ ngân sách của tỉnh theo hướng xây dựng chính sách tín dụng chung cho dễ triển khai và quản lý; mở rộng chính sách tín dụng ưu đãi đối với các xã vùng khó khăn, hỗ trợ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và đối tượng lao động thuộc hộ nông nghiệp có mức thu nhập từ trung bình trở xuống được vay vốn ưu đãi để đi xuất khẩu lao động.

Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cần có chính sách gắn mục tiêu giảm nghèo từng năm, từng giai đoạn cụ thể với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh để cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là các xã nghèo ở huyện Nho Quan, các xã ven biển ở huyện Kim Sơn. Đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ dân cư nông thôn tiếp cận đến các dịch vụ xã hội bằng cách triển khai các dự án phát triển kết cấu hạ tầng quy mô nhỏ (điện, đường, trường, trạm, thông tin). Thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; chương trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo ở các xã vùng khó khăn vùng bị tác động bởi thiên tai.

Kết luận

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của bảo đảm an sinh xã hội, những năm qua, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tỉnh Ninh Bình đã thường xuyên quan tâm hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho hiện thực hóa bảo đảm an sinh xã hội, góp phần ổn định đời sống Nhân dân. Trước yêu cầu của bảo đảm an sinh xã hội cho người dân trong tình hình mới, Ninh Bình cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở tỉnh.

Chú thích:
1, 3. Báo cáo số 208/LĐTBXH-VP ngày 17/8/2020 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Bình về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2015 – 2020; phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp giai đoạn 2020 – 2025 thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội.
2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII nhiệm kỳ 2020 – 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021.
2. Phạm Hữu Nghị. Yêu cầu của quản lý nhà nước về an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2019.
PGS.TS. Phạm Văn Sơn, TS. Đỗ Văn Trịnh, ThS. Đỗ Văn Hai
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng