TS. Nguyễn Thị Thắm
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là môn học trang bị những kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cung cấp những tri thức nhằm nâng cao trình độ nhận thức chính trị, tư duy cho người học. Đối với sinh viên, môn học này còn có ý nghĩa giáo dục truyền thống cách mạng, giáo dục lý tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ nhận thức và hành động đúng đắn sẽ giúp sinh viên bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Tạo “sức đề kháng” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng từ bên trong cho sinh viên
Nền tảng tư tưởng của Đảng được xác định rõ và xuyên suốt trong quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế, quan điểm này lại tiếp tục được khẳng định rõ nét hơn. Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người; học thuyết này được sáng lập bởi C. Mác, Ph. Ăngghen và được V.I. Lênin vận dụng và phát triển trong thực tiễn. Chủ nghĩa Mác – Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, đó là: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học2. Trong khi đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi3.
Như vậy, có thể hiểu, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là những học thuyết, những tư tưởng được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu văn minh của tư duy nhân loại; liên tục được bổ sung, phát triển từ những kết quả nghiên cứu mới nhất của khoa học và tổng kết thực tiễn lịch sử trong nước và thế giới, cùng những dự báo khoa học về tương lai. Hệ thống tri thức này là những kiến thức khoa học có tác dụng trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân4. Khái niệm này đã và đang tiếp tục được cập nhật nhiều nội dung mới phù hợp với điều kiện thực tiễn trong các giai đoạn phát triển của đất nước.
Một trong những nội dung dễ tiếp cận, được giáo dục trực tiếp và thường xuyên nhất đối với sinh viên về nền tảng tư tưởng của Đảng là môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một trong những môn học lý luận chính trị cơ bản bắt buộc thuộc chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng ở nước ta. Việc giảng dạy và học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đơn thuần là tiếp nhận mang tính liệt kê các sự kiện lịch sử mà đó là quá trình giúp sinh viên nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện đó thể hiện quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng cũng giúp sinh viên thấy rõ thắng lợi, thành tựu của cách mạng, đồng thời cũng thấy rõ những khó khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh, cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự hy sinh, phấn đấu của các tổ chức lãnh đạo của Đảng từ trung ương tới cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên, với những tấm gương tiêu biểu.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ trong giai đoạn 1954 – 1975 trước hết và căn bản khởi phát từ lợi ích bên trong của các nước đế quốc, từ chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nghị quyết Trung ương 15 (năm 1959), đưa đến cuộc Đồng khởi vĩ đại, đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng miền Nam, một thành công điển hình về phương pháp tiến hành cách mạng bạo lực5. Sự khởi đầu đó phù hợp đối sánh lực lượng ta – địch, phù hợp nguyện vọng của đông đảo quần chúng, thời điểm phù hợp với thời cơ lịch sử, được thế giới đồng tình ủng hộ; tạo thế và lực cho cách mạng miền Nam và tạo động lực cho quá trình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, cũng cung cấp cho sinh viên kiến thức về quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay. Trong đó, đáng lưu ý là quyết tâm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Cùng với đó, nhiều quan điểm, chính sách mới mang tính cởi mở hơn cũng đã được vận dụng trong thực tiễn như: việc đảng viên được làm kinh tế tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể được kết nạp đảng. Các tư duy mới như vậy của Đảng được hình thành dựa được trên cơ sở tổng kết thực tiễn và tiếp thu các trào lưu tư tưởng tiến bộ của thời đại thể hiện trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. Nhờ những quan điểm tiến bộ đó, sau gần 40 năm đã chứng minh định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Mặt khác, những thành công đó cho thấy, khả năng lãnh đạo đất nước xoay chuyển tình thế, kịp thời thích nghi với bối cảnh chính trị – kinh tế mới của quốc tế nhưng vẫn giữ được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội6.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đổi mới của Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Chẳng hạn như: giai đoạn hơn 10 năm xây dựng CNXH trên cả nước (1975 – 1986), sự lãnh đạo của Đảng bộc lộ nhiều hạn chế cả trong nhận thức và trong tổ chức chỉ đạo thực hiện… Đại hội VI của Đảng (12/1986), đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1975 – 1985. Thông qua những tư liệu, sự kiện lịch sử khách quan, tin cậy, sinh viên có thể nhìn nhận khách quan rằng: qua các thời kỳ lịch sử, Đảng đã nghiêm túc và kịp thời tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để củng cố tổ chức đủ năng lực tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng phát triển.
Với việc cung cấp các tư liệu chính thống và những phương pháp giảng dạy khoa học, hệ thống từ các giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng, những sự kiện có tính “vấn đề” trong lịch sử Đảng sẽ giúp các sinh viên hiểu thấu đáo những thông tin chính thống về lịch sử Đảng, từ đó tạo ra “sức đề kháng” từ bên trong khi người học tiếp cận với những nguồn tin khác nhau từ mạng internet hay mạng xã hội. Đồng thời, giúp sinh viên hiểu rõ hơn về hệ thống tổ chức của Đảng, những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Với những kiến thức cơ bản và nền tảng đó, Lịch sử Đảng có chức năng nhận thức và chức năng giáo dục rất quan trọng đối với các sinh viên. Bởi chỉ khi nhận thức đúng đắn về quá khứ, mới hiểu được toàn diện về hiện tại và dự báo được sự phát triển trong tương lai.
Giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sinh viên
Những năm qua, hoạt động giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng ở nước ta đã được quan tâm và triển khai tương đối có hiệu quả. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị nói chung và các giảng viên trực tiếp giảng dạy Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các trường đại học, cao đẳng nói riêng đã có nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của môn học và thường xuyên nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các giờ giảng. Đặc biệt hơn, đã có nhiều khoa, bộ môn chú trọng và chủ động nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng cụ thể hóa lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, làm cho chất lượng các giờ giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam được không ngừng cải thiện. Nhiều bài giảng hay thu hút được sự quan tâm, chú ý, tích cực học tập từ phía người học là sinh viên.
Tuy nhiên, ở một số trường còn xem nhẹ môn học này (nhất là các trường đại học không chuyên về lý luận chính trị). Bản thân môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thường được coi là một trong môn học lý luận chính trị khô khan, không tạo được hứng thú học tập đối với sinh viên.
Một là, về nội dung chương trình giảng dạy.
Trong bối cảnh của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, nội dung của các thế lực thù địch sử dụng để xuyên tạc vai trò lãnh đạo và nền tảng tư tưởng của Đảng cũng ngày càng phức tạp, không chỉ đơn thuần ở lĩnh vực lịch sử mà thực chất là chống phá về “tư tưởng”, “chính trị” với mục tiêu thay đổi ý thức hệ, lập trường, hạ bệ uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng… Các thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước cũng rất đa dạng, tinh vi và hết sức trắng trợn… Do đó, đòi hỏi các nội dung giảng dạy, tuyên truyền về lịch sử Đảng cần được bổ sung, cập nhật và lý giải một cách toàn diện, rõ nét mới đủ sức thuyết phục để chống lại những tư tưởng chống phá này. Yêu cầu cần thiết là vậy, tuy nhiên trên thực tế, nội dung chương trình, giáo trình giảng dạy về lịch sử Đảng hiện nay còn nhiều hạn chế.
Ở các trường đại học, cao đẳng, Lịch sử Đảng là môn học được giảng dạy dưới hai hình thức: môn chuyên ngành dành cho đối tượng là sinh viên ngành Giáo dục chính trị và môn chung dành cho các khoa cơ bản trong nhà trường. Tuy nhiên, khi cấu trúc các môn lý luận chính trị dành cho khoa cơ bản chuyển thành môn Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam thì tên gọi chính thức của môn Lịch sử Đảng chỉ giới hạn trong chương trình đào tạo cử nhân ngành Giáo dục chính trị, cơ cấu trong khung chương trình năm thứ nhất đến năm thứ ba tùy theo cách sắp xếp của mỗi nhà trường. Thời lượng giảng dạy và số lượng tín chỉ tại không ít, đặc biệt là các trường không chuyên lý luận chính trị cũng bị cắt giảm tương đối, thậm chí bị xem nhẹ. Các nội dung chương trình mới tập trung chủ yếu ở hình thức trình bày theo hướng liệt kê sự kiện theo chương mục, chưa có sự đầu tư nghiên cứu thiết kế theo các chủ đề để vừa kế thừa những nội dung chương trình trong giai đoạn trước, vừa bổ sung những nội dung có tính giáo dục chính trị tư tưởng cao và thu hút sự quan tâm của sinh viên như các vấn đề về: Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia, chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia,… Đây là những vấn đề có tính thời sự và cũng là những tiêu điểm mà các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, chống phá.
Hai là, về phương thức giảng dạy và đánh giá kết quả học tập.
Không chỉ đơn thuần giới thiệu về quá trình lịch sử ra đời và lãnh đạo cách mạng mà quan trọng hơn, đó là cung cấp các kiến thức giúp sinh viên hiểu rõ về quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,pháp luật của Nhà nước hiện hành để có hành vi phù hợp (ủng hộ hoặc phản biện), thông qua đó hình thành nhân cách của công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, phương pháp giảng dạy đối với môn học này ở không ít trường đại học, cao đẳng vẫn còn được tiến hành truyền thụ một chiều, giản đơn. Giảng viên chưa áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm.
Ba là, về chất lượng đội ngũ giảng viên.
Tại nhiều trường, còn một bộ phận giảng viên trẻ do hạn chế về năng lực sư phạm, thiếu kiến thức thực tiễn minh họa nên trong quá trình giảng dạy mới chủ yếu truyền đạt được các nội dung cơ bản, chưa chỉ ra được cơ sở khách quan, tính đa dạng, phức tạp của quá trình hình thành, nhận thức và thực hiện quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giảng viên ít đưa được các yếu tố thực tiễn vào để phân tích, định hướng tư tưởng và hướng dẫn hành động cho sinh viên.
Bốn là, về ý thức học tập của sinh viên.
Hiện nay, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên thờ ơ, xem nhẹ môn học này một phần do bản chất Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc một trong những môn về lý luận chính trị nên có tính trừu tượng nhất định, nhưng một phần khác nữa cũng là bởi việc trang bị các kiến thức xã hội của sinh viên ở bậc phổ thông còn hạn chế. Với sinh viên đang ở lứa tuổi thanh niên (nhất là sinh viên các trường kỹ thuật), học môn này khó hơn so với học các môn khoa học tự nhiên vì kiến thức nền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội còn rất hạn chế. Do đó, nhiều sinh viên có quan niệm sai lầm cho rằng, với các môn khoa học xã hội chỉ cần học thuộc, thậm chí học đối phó nên thiếu ý thức học tập đúng đắn và nghiêm túc.
Năm là, cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy.
Thực trạng một bộ phận giảng viên chưa sử dụng tốt giáo án điện tử, sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh, phim tư liệu; seminar hoặc tổ chức thảo luận cũng là do xuất phát từ thực tế điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường hiện nay nhìn chung còn thiếu thốn. Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng các phương tiện và ứng dụng công nghệ để sản xuất các tư liệu chống phá Đảng, Nhà nước trên mọi nền tảng, từ mạng internet đến các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, Zalo, Tiktok, Instagram, Twitter,… với những video, hình ảnh thiết kế rất trực quan, thu hút được sự chú ý của rất nhiều đối tượng người dùng, trong đó đặc biệt là lực lượng sinh viên.
Những hạn chế trong việc nghiên cứu, giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khiến cho một bộ phận sinh viên không ít sinh viên có biểu hiện “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, một bộ phận sinh viên có xu hướng chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của mình, hoặc chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị, lười tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội nên nhận thức chính trị còn hạn chế.
Những biện pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Lịch sử Đảng đối với sinh viên nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Một là, nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên và sinh viên về tầm quan trọng của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện được điều này, trước hết, đội ngũ giảng viên và sinh viên phải nhận thức đúng vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập của bản thân để có thái độ đúng đắn, nghiêm túc đối với việc dạy và học môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm góp phần nâng cao hiểu biết để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, cần khẳng định vị trí, vai trò của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với các môn lý luận của Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là những môn học chủ đạo, cung cấp tri thức khoa học để xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng của mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên.
Các trường đại học và cao đẳng trên cả nước cần chú trọng làm tốt công tác tư tưởng, kịp thời nắm bắt những diễn biến tư tưởng của viên chức là giảng viên tại các khoa giảng dạy các môn Lý luận cơ sở nói chung và trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng để có định hướng và xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quan tâm, tạo mọi điều kiện để đội ngũ này yên tâm về tư tưởng tham gia nhiệt thành, toàn tâm toàn ý với công tác giảng dạy bộ môn này. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp tại Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung và Lịch sử Đảng nói riêng.
Đội ngũ giảng viên chính trị nói chung, giảng viên trực tiếp giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc trực tiếp định hướng và dẫn dắt tư tưởng cho các sinh viên trong nhà trường. Do đó, cần tiếp tục chuẩn hóa đội ngũ này cả về số lượng, chất lượng, trình độ học vấn, năng lực sư phạm, năng lực nghiên cứu lý luận. Cần quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho các giảng viên; kết hợp giữa đào tạo khoa học tri thức với đào tạo đạo đức, tư tưởng; giữa đào tạo lý luận với đào tạo thực tiễn nhằm nâng cao trình độ, năng lực, uy tín cho đội ngũ giảng viên này.
Ngoài ra, giảng viên cũng cần được bổ sung, cập nhật những kiến thức mới về đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng để dẫn chứng trong từng bài học. Quá trình giảng dạy, giảng viên cũng cần thường xuyên cập nhật các kỹ năng, phương pháp giảng dạy mới để giúp sinh viên nắm vững thực chất các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo và phát triển các nguyên lý đó vào việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng ta. Qua đó, bảo đảm mục tiêu giảng dạy sát với thực tiễn, đúng yêu cầu, đúng đối tượng người học.
Ba là, đổi mới nội dung giảng dạy theo hướng tăng hàm lượng kiến thức, cập nhật những nội dung mới về sự lãnh đạo của Đảng.
Lãnh đạo đấu tranh cách mạng và phát triển đất nước của Đảng ta là quá trình dài xuyên suốt nên cần được cập nhật liên tục. Do đó, thời gian tới có thể nghiên cứu cập nhật và tích hợp các nội dung, quan điểm của Đảng ta về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong quá trình giảng dạy của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính cập nhật, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn của bài giảng.
Nội dung giáo trình Lịch sử Đảng hiện nay chỉ nên là bộ khung kiến thức cơ bản vì còn khá hàn lâm và trừu tượng, do đó cũng cần có sự nghiên cứu, đổi mới, cập nhật những vấn đề thực tiễn của đất nước và thời đại đang đặt ra… Đội ngũ biên soạn giáo trình cũng cần bảo đảm có trình độ chuyên môn cao và chuyên sâu về lý luận và lịch sử Đảng.
Bốn là, đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, giảng viên có thể đổi mới mạnh mẽ cả phương pháp dạy và học, theo hướng sử dụng hình thức đối thoại, trao đổi, thảo luận với sinh viên, nêu câu hỏi để cùng tìm hiểu, học tập. Đối với sinh viên không nên chỉ thụ động nghe mà cũng cần biết đặt ra các yêu cầu cần thiết trong khuôn khổ bài học và môn học. Cùng với đó, tích cực ứng dụng các thiết bị công nghệ vào giảng dạy để các bài học được trở nên sinh động hơn, sinh viên có thể hình dung dễ hơn về lịch sử lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ thông qua các nguồn tư liệu phim, hình ảnh. Cách làm này đã từng được nhiều cơ sở đào tạo nghiên cứu và ứng dụng và mang lại hiệu quả tích cực, tạo tâm lý thoải mái cho sinh viên khi tiếp thu tri thức khoa học lý luận hàn lâm của môn học này, như: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và nhiều cơ sở đào tạo khác7… do đó có thể nghiên cứu tham khảo và áp dụng rộng rãi ở các trường đại học, cao đẳng trên cả nước.
Năm là, tăng cường đầu tư trang thiết bị giáo dục hiện đại, hỗ trợ việc giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay đã và đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung và cả với bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Lịch sử Đảng là một môn học bắt buộc được giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng. Trong giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng, công nghệ thông tin có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến thức của người học. Do đó, việc nghiên cứu đầu tư cơ sở vật chất hiện đại và các ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ giảng dạy là yêu cầu cấp bách đối với các nhà trường hiện nay.
Theo đó, trước mắt, các nhà trường cần đầu tư trang thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại, cột thu sóng wifi mạnh đủ cho giảng viên và sinh viên tham gia kết nối và học tập trên internet một cách dễ dàng hơn, đặc biệt là để hỗ trợ khai thác, tra cứu các tư liệu, học liệu về lịch sử nói chung và lịch sử Đảng nói riêng. Đồng thời, cần bồi dưỡng, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho giảng viên để có thể sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hỗ trợ việc giảng dạy Lịch sử Đảng. Về lâu dài, cần xây dựng kế hoạch, quy hoạch và chiến lược phát triển cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy và học hiện đại phù hợp với chiến lược chung của nhà trường.
Kết luận
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những môn học quan trọng, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, giúp sinh viên nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan của lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, không chỉ giúp sinh viên bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mà còn khắc phục được bệnh chủ quan, duy ý chí, dao động trước những thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch ở một bộ phận sinh viên hiện nay. Vì vậy, trong giai đoạn tới, cần tiếp tục nghiên cứu, thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp nêu trên một cách toàn diện và nhất quán để hoạt động giáo dục, tuyên truyền các nội dung của Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại hiệu quả thiết thực, khắc phục những hạn chế trong giảng dạy môn học này thời gian qua, từ đó tích cực góp phần vào công cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lực lượng sinh viên – thế hệ tương lai của đất nước Việt Nam.