Nhà nước pháp quyền từ cách tiếp cận triết học chính trị và những gợi ý đối với cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam

Lê Văn Phúc
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
Lê Thị Ánh Hồng
Bệnh viện Da Liễu, TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền một mặt bảo đảm tự do trong xã hội, mặt khác, kiểm soát đối với các quy định về ranh giới của tự do công dân. Một nhà nước công bằng và hợp lý là nhà nước biết dựa vào quyền lực mạnh để hiện thực hóa tự do (khuyến khích và ngăn chặn). Tính thiêng liêng và tính bất khả xâm phạm của quyền lực không lệ thuộc vào chế độ chính trị của nó. Điều quan trọng là phải xác lập được nguyên tắc nghĩa vụ pháp quyền phổ biến, mà để nguyên tắc đó biến thành hiện thực cần sử dụng cả giải pháp cưỡng chế. Bài viết nghiên cứu Nhà nước pháp quyền từ cách tiếp cận triết học chính trị và những gợi ý đối với cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Ảnh minh hoạ.
Vấn đề Nhà nước pháp quyền từ cách tiếp cận triết học chính trị

Nền dân chủ chính trị và nhà nước pháp quyền, theo sử liệu học, ra đời vào thời cận đại. Nhà nước được thiết lập trên sức mạnh, nhưng trong nhà nước pháp quyền sức mạnh này được thể chế hóa, tuân thủ nghiêm minh các chuẩn mực pháp quyền.

Nhà nước trở thành nhà nước pháp quyền vì đặt dưới quyền lực của pháp luật pháp quyền tỏ rõ ưu thế trước nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, các hình thức, phương tiện và cơ chế hoạt động của nhà nước lẫn giới hạn của tự do công dân, do pháp luật bảo đảm, được xác định chính xác và rõ ràng. Điều đó có nghĩa là bộ máy nhà nước vận hành theo quy định pháp luật, nó có quyền soạn ra luật, song bản thân nó, về phần mình, đòi hỏi phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ pháp luật. Nói khác đi, khi đưa ra luật, nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng luật cho đến khi nó còn tồn tại và tiếp tục vận hành, mặc dù nhà nước có toàn quyền xem xét lại nó, hoặc thậm chí xóa bỏ nó. Hơn nữa, nhà nước có thể chịu sự phán quyết của Tòa án tối cao do chính mình lập ra. Tính pháp quyền nghiêm minh của nhà nước cũng thể hiện ra ở đây.

Quan niệm về nhà nước pháp quyền gắn kết với hai nguyên tắc chủ đạo: trật tự kỷ cương quốc gia và an ninh công dân. Nhiệm vụ của nhà nước là ở chỗ điều tiết quan hệ giữa các công dân tự do trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc luật pháp bảo đảm tự do cá nhân, không xâm phạm sở hữu và các quyền khác của con người và công dân.

Sự khác nhau cơ bản giữa các chuẩn mực pháp lý và các chuẩn mực phong tục, đạo đức là ở chỗ hiệu lực của cái thứ nhất được bảo đảm bằng sức mạnh của nhà nước, còn của cái thứ hai là xã hội. Trong nhà nước pháp quyền chỉ có chính phủ nào được bầu lên hợp pháp mới có toàn quyền áp dụng sức mạnh như công cụ cưỡng bức. Sự yếu kém của chính quyền là hiểm họa nghiêm trọng nhất của nhà nước: quyền công dân, lợi ích nhà nước bị thách thức và xâm hại do sự quản lý và điều hành yếu kém của chính quyền.

Quyền lực và pháp quyền trong nhà nước pháp quyền có mối quan hệ qua lại, chế ước nhau nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực để thủ tiêu quyền con người, tránh sự đề cao quyền mà hạ thấp vai trò của công cụ quyền lực, mặc dù không phải không có tác giả đưa ra hình ảnh ví con người là quyền lực, đòi hỏi hạn chế pháp quyền và đồng thời pháp quyền đòi hỏi hạn chế quyền lực1. Thực ra quan hệ giữa quyền lực và pháp quyền là quan hệ biện chứng và giả định nhau, nghĩa là quyền lực có thể là công cụ hữu hiệu ngăn chặn sự lạm dụng, hay sử dụng thiếu kiểm soát các quyền do luật định. Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền là luật cơ bản không chỉ nhằm bảo vệ quyền cá nhân, mà cả quyền lợi chung. Nhà nước pháp quyền khác với nhà nước độc tài hay quân phiệt, hạn chế chính mình bằng tổ hợp các chuẩn mực và quy tắc thường trực nhất định. Tư tưởng chính của Hiến pháp là phân chia và giới hạn quyền lực, bảo đảm tự do công dân.

Trong học thuyết phân quyền, như cách mà đa phần các quốc gia đang áp dụng hiện nay, sự độc lập của các nhánh quyền lực khác nhau căn cứ vào các đặc trưng vận hành của bộ máy quyền lực. Người đứng đầu nhà nước, quốc hội, chính phủ, tòa án sở hữu các quyền theo những quy định nghiêm ngặt. Điều kiện bảo đảm tự do chính trị là thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các nhánh và cơ quan quyền lực khác nhau. Các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp hoàn toàn không phải là một cơ quan tự thân nào đó, chúng là sự thể hiện, hoặc là những cấp độ khác nhau của quyền lực thống nhất.

Bất kỳ Hiến pháp nào cũng có nhiệm vụ bảo đảm tính hợp pháp của trật tự nhà nước. Hiến pháp của nhà nước pháp quyền không nằm ngoài cơ sở tất yếu này. Nó quy định cơ chế thực hiện chủ quyền Nhân dân, các nguyên tắc phân chia định chuẩn, chức năng giữa các nhánh và các cấp quyền lực. Hiến pháp quy định các nguyên tắc nền tảng của chế độ chính trị, chứ không như các luật thay đổi thường xuyên. Tất cả các văn bản luật nhà nước và hoạt động chính phủ cần phải thống nhất với các chuẩn mực Hiến pháp. Theo nghĩa đó, cần xem xét Hiến pháp như dây cương đặc thù đối với quyền lực chính trị, có chức năng ngăn chặn sự thống trị vô hạn của quyền lực trước xã hội và con người.

Một trong những chức năng của nhà nước pháp quyền, như đã nói trên là điều tiết quan hệ giữa các công dân trên cơ sở pháp luật. Tính nghiêm minh của pháp luật cũng đồng thời là sự bảo đảm cho hoạt động của cá nhân. I. Kant2 từng đưa ra ý tưởng cơ bản về nhà nước pháp quyền như sau, mỗi công dân có quyền giám sát nhà cầm quyền trong việc chấp hành luật, tương tự như vậy, nhà cầm quyền có quyền cưỡng chế công dân, nhà làm luật cũng phải tuân thủ luật. Quyền lực bền vững là quyền lực thống nhất với luật pháp! Tính bền vững của quyền lực phụ thuộc vào tính hiệu quả và nghiêm minh của nó. Bản chất của nhà nước pháp quyền là ở sự xác định phương thức thực hiện mục tiêu và nội dung của trật tự pháp quyền nhà nước. Nhà nước pháp quyền được bảo đảm những điều kiện tối ưu cho việc hiện thực hóa các khả năng và quyền lợi công dân như thực thể tự chủ, có chủ quyền, phù hợp với các nguyên tắc tổ chức đời sống chính trị trong môi trường của tính luật pháp phổ biến.

Cần phân biệt trật tự pháp quyền, tính luật pháp với pháp quyền. Luật pháp là công cụ quan trọng mang tính phổ biến và là thuộc tính của mọi nhà nước. Nhà nước nào cũng cần đến luật, vấn đề là luật đó phù hợp với ý chí của ai, của lực lượng xã hội nào. Không nên đồng nhất sự cai trị bằng luật pháp với mô hình nhà nước pháp quyền, mặc dù pháp quyền là phạm trù lịch sử xuất hiện ngay từ thời cổ đại (ở La Mã chẳng hạn). Trật tự pháp quyền, chuẩn mực pháp quyền được đặt ra nhằm điều tiết quan hệ giữa người với người.

Về tính chất, nhà nước pháp quyền là kết quả của những cuộc cách mạng tư sản chống chế độ phong kiến. Nhà nước pháp quyền – đó là một hiện tượng lịch sử xuất hiện trên một chặng đường phát triển lịch sử nhất định của xã hội phương Tây, mà chính là vào thời cận đại với sự hình thành các quan hệ xã hội tư sản. Xã hội công dân và nhà nước pháp quyền hình thành và phát triển như sự phản ứng chống lại thần quyền trung cổ. Một trong những nguyên tắc cơ bản của chúng là thế tục hóa đời sống chính trị – xã hội, tách nhà thờ ra khỏi nhà nước, thiết lập một trật tự pháp quyền kiểu mới trên cơ sở thừa nhận quyền tự do công dân toàn xã hội (khác với thế giới cổ đại chỉ có 1/10 dân số được gọi là “con người”, sau đó “công dân”). Ở đây đã loại bỏ sự thống nhất có tính thuần nhất chính trị và tôn giáo, chính trị và hệ tư tưởng, khẳng định sự phân đôi cái xã hội và cái cá thể, xã hội và nhà nước, pháp quyền và đạo đức, tôn giáo và thế tục… Tôn giáo, đạo đức, khoa học, nghệ thuật và các hiện tượng tinh thần khác bắt đầu tồn tại trong tính toàn vẹn và thể hiện tính tương đối của mình.

Với những gì đã, đang và dự báo sẽ diễn ra trên thế giới có thể thấy rằng, sự trông đợi về một mô hình nhà nước lý tưởng hoặc một kiểu quyền lực lý tưởng là hết sức mơ hồ, thậm chí không tưởng. Nhân loại vẫn chưa tìm ra một hình thức hoàn thiện nào đó của chế độ nhà nước, một hình thức hiệu quả, công bằng, đáp ứng như nhau quyền lợi và ý chí của tất cả các lực lượng xã hội, các quyền con người và tự do cá nhân. Lịch sử từng chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về mô hình nhà nước, chẳng hạn Plato3 chủ trương một nhà nước lý tưởng có tính kỷ luật cao, nhưng C.Mác nhận thấy ở đó mô hình của chủ nghĩa cộng sản bình quân, thô lỗ. Nền dân chủ dù được hiểu một cách khái quát theo nghĩa trực tiếp là “quyền lực của nhân dân”, nhưng trên thực tế, đó là khái niệm làm hao tốn nhiều giấy mực, tạo nên nhiều tranh luận gay gắt. Nói chung, mô hình nào cũng có mặt trái của nó, vì thế xuất hiện các phương án chiết trung về lịch sử.

Những năm gần đây, vị trí và vai trò của nhà nước như chủ thể cơ bản của quyền lực và đại diện cho chủ quyền, triển vọng của nó, được đánh giá lại, gắn với các quá trình và những đột biến diễn ra trên bình diện toàn cầu. Nét đặc trưng của tình thế hiện nay là ở sự gia tăng số lượng các lực lượng đa chiều của chính trị thế giới do sự tăng cường các quá trình liên kết, hội nhập và toàn cầu hóa. Những quá trình này thể hiện rõ trong khuynh hướng liên kết kinh tế và chính trị ngày càng tăng, sự khu vực hóa và thiết lập các tổ chức quốc tế liên quốc gia, phi chính phủ, đóng vai trò không nhỏ trong chính trị quốc tế và chủ thể của hệ thống chính trị thế giới.

Các biến đổi này không thể không tác động đến việc thẩm định lại vai trò và chức năng của từng nhà nước riêng lẻ, trong đó có việc tiếp nhận và đưa ra các giải pháp liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Có những vấn đề không quốc gia nào có thể một mình giải quyết được, yếu tố bên ngoài ngày càng ảnh hưởng đáng kể tới các quyết sách bên trong. Vì lẽ đó việc cân bằng chính sách đối nội và đối ngoại là đòi hỏi cấp bách, mang tính sống còn đối với mỗi quốc gia. Nhịp độ của những biến đổi công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin và truyền thông đại chúng, góp phần đẩy nhanh các quá trình này.

Trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ hoàn thiện các thiết chế của nhà nước pháp quyền cần giáo dục ý thức về mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập và liên kết quốc tế với tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập của mỗi quốc gia, ngăn chặn những tham vọng của các siêu cường áp đặt ý chí chính trị lên các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực, nhất là Liên hợp quốc. Cùng với sự gia tăng của các quá trình quốc tế hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các dân tộc còn là sự gia tăng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác. Một mâu thuẫn cần được quan tâm và tìm ra phương thức giải quyết thích hợp – mâu thuẫn giữa sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế và chính trị của các quốc gia, các dân tộc với việc đảm bảo chủ quyền quốc gia, và tương ứng với nó là vai trò của nhà nước như chủ thể các quan hệ quốc tế.

Nhà nước không phải là tổng số đơn giản gồm những cá nhân riêng biệt, với những đặc tính xã hội, văn hóa, ngôn ngữ riêng. Nhà nước là kết quả của sự tổng hợp hữu cơ tất cả khía cạnh đó, xuyên suốt bởi tính chủng tộc – dân tộc thống nhất, thể hiện trong sự thống nhất lý tưởng, ý chí và quyền lợi chung bất chấp những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột khó tránh khỏi. Nhà nước pháp quyền như sự phản ánh nhận thức và tổ chức đời sống chính trị trên một chặng đường lịch sử nhất định, đã làm cho mục tiêu dân tộc – quốc tế ngày càng được hiện thực hóa với toàn bộ sự phong phú và sâu sắc của chúng.

Những vấn đề đặt ra đối với đổi mới cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Trong quá trình cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền cần đặc biệt quan tâm tới một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, cải cách, đổi mới và gắn với nó là công khai, không phải là những toan tính xa rời chủ nghĩa xã hội, như nhiều nhà phân tích ở Việt Nam nhận định, mà theo tôi, là những nỗ lực nhằm tìm ra phương án tối ưu cho nhà nước lý tưởng. Ý định ban đầu của các kiến trúc sư cải tổ là “dân chủ nhiều hơn nữa, chủ nghĩa xã hội nhiều hơn nữa”, đưa chủ nghĩa xã hội trở về cội nguồn chân chính của nó, khắc phục “chủ nghĩa cực quyền”. Cuộc chiến tranh “đánh vào lòng người” chỉ phát huy tác dụng khi con người bắt đầu hoài nghi những giá trị mà họ từng tin theo. Để ngăn chặn “diễn biến hòa bình” trước hết phải cảnh giác và ngăn chặn khả năng “tự diễn biến hoà bình” và đừng đổ lỗi cho sự lựa chọn của Nhân dân.

Bài học của Liên Xô liên quan đến vấn đề này vẫn luôn mang tính thời sự. Ở góc độ lý luận có thể tồn tại nhiều cách đánh giá khác nhau về hiện tượng Liên Xô, từ quan điểm mácxít đến quan điểm ngoài macxít, song giữa chúng vẫn có những tương đồng cơ bản. Vai trò định hướng của tư duy lý luận đối với hoạt động thực tiễn. Tính chất vừa lạc hậu, giáo điều, vừa phiêu lưu, không tưởng của hệ tư tưởng đã áp đặt lên toàn bộ lịch sử 70 năm tồn tại của chế độ Xôviết một mô típ cứng nhắc theo kiểu “ai không theo chúng ta tức là chống lại chúng ta” (khác với luận điểm “ai không chống chúng ta tức là đứng về phía chúng ta”), tạo nên sự “cằn cỗi” bên trong hệ thống, sự phát triển phiến diện và lệch lạc của cơ thể xã hội. Hiểm hoạ lý luận trở nên rõ ràng trong đường lối phát triển đất nước.

Các nhà triết học, sử học, kinh tế học, xã hội học và tâm lý học tập trung phân tích sự ngưng đọng có tính chất kinh viện Trung cổ của hệ thống giáo dục lý luận tại Liên Xô. Hệ thống đó kiểm soát chặt chẽ tư tưởng, đào tạo nên những con người nhân danh duy vật, nhưng lại duy tâm, nhân danh biện chứng, nhưng lại siêu hình, nhân danh kiên định lập trường để phủ nhận cái mới, hình thành thói quen suy nghĩ một chiều, tự tha hoá và mắc phải bệnh “ma túy chính trị”. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực tại Liên Xô được báo trước từ việc nhận thức mô hình phát triển trong suốt hơn 70 năm tồn tại. Thực ra, nên gọi mô hình Liên Xô là “hình mẫu” cho đúng với bản chất của nó. Nói “hình mẫu”, “khuôn mẫu”, bởi lẽ Liên Xô đã tự xem mình là khuôn mẫu duy nhất cho các nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Những nước nào không chấp nhận hình mẫu ấy đều bị cô lập khỏi hệ thống, mà hạt nhân của nó là khối SEP (Hội đồng tương trợ kinh tế).

Quan điểm siêu hình và duy ý chí đó, thứ quan điểm được nâng lên thành “chính thống”, thành chân lý không thể bác bỏ, là nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng lý luận dưới chủ nghĩa xã hội hiện thực, dẫn đến cái chết khó tránh khỏi của nó. Vậy nên  không hẳn “diễn biến hòa bình”, mà “tự diễn biến hòa bình”, không hẳn nguyên nhân bên ngoài, mà nguyên nhân bên trong, không hẳn sự phản bội nhất thời của một tập đoàn lãnh đạo, mà quá trình phát triển lâu dài, có hệ thống và cuối cùng, không phải những sai lầm trong thực tiễn phát triển của đất nước mà đường lối phát triển, định hướng lý luận đối với hoạt động thực tiễn mới là những điều cần phân tích trước tiên trong toàn bộ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu.

Để cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần loại bỏ tính giáo huấn một chiều. Tính giáo huấn, một chiều thể hiện ở chỗ gạt sang bên hàng loạt giá trị nhân loại chung, hoặc quy mọi giá trị về một giá trị, biến nó thành cái tuyệt đối duy nhất. “Ảo tưởng xôviết”, “hội chứng xôviết” là minh chứng cho tính một chiều này trong nhận thức. Nó tạo nên ở các tầng lớp Nhân dân cảm giác về tính ưu việt tuyệt đối từ mọi phương diện trước thế giới phương Tây đang khủng hoảng và lầm lạc. Do đó, mọi đánh giá có tính phê phán của phương Tây về Liên Xô, kể cả những đánh giá khách quan, cũng đều bị xem là xuyên tạc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, đổi mới thực tế, dứt khoát và toàn diện. Dân trí càng cao, con người càng không thể chấp nhận cải cách đơn giản và phi thực tế. Đổi mới có tính đến những điều kiện thực tế, không “đổi mới bằng mọi giá”, không “hy sinh những nguyên tắc”. Đổi mới nói chung và đổi mới cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nói riêng ở nước ta mà từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đồng nghĩa với việc đánh mất chủ nghĩa xã hội theo quan đểm mácxít; ngược lại, tự khoác tấm áo của chủ nghĩa xã hội lên một cơ thể chưa trưởng thành, chưa tương xứng với cái “danh” ấy, là biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa hình thức. Cả hai thái cực này đều đáng phê phán như nhau, bởi lẽ chúng tạo ra tâm lý hụt hẫng lẫn thất vọng, gây nên cảm giác bị lừa dối ở con người.

Chúng ta không nhân danh chủ nghĩa Mác để chống lại Mác, nhân danh chủ nghĩa xã hội để chống lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa, biến bộ máy quyền lực thành chuyên chế của một nhóm người thượng lưu mới đầy quyền thế, nhiều đặc quyền đặc lợi, biến nhà nước xã hội chủ nghĩa thành thiết chế vượt lên trên xã hội, biến người đứng đầu Đảng và Nhà nước thành ông vua không vương miện theo kiểu “Nhà nước là tôi, tôi là Nhà nước”, thủ tiêu tinh thần tự phê bình và phê bình, áp đặt cho ý thức con người những khuôn mẫu tư tưởng định sẵn, những giới hạn không thể vượt qua trong nhận thức và hành động. Sự mâu thuẫn, nguỵ biện và giả dối này, hay sự tha hoá chính trị trong một bộ phận đảng viên và giới lãnh đạo.

Trong nhiều trường hợp cái được trịnh trọng tuyên bố là lợi ích xã hội và quốc gia, thì hóa ra lại là sự kết hợp khiên cưỡng lợi ích thực tế của xã hội và quốc gia với lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nó của những nhóm nắm quyền lực, các tổ chức quan liêu và thậm chí của người đứng đầu nhà nước. Đa phần trường hợp lợi ích cá nhân này trên thực tế thâu tóm, chi phối lợi ích xã hội và quốc gia, mặc dù về hình thức nó tự tuyên bố với tính cách đó. Vậy là đã diễn ra tình thế chết người. Cái được tô vẽ với tính cách là lợi ích xã hội trên thực tế lại là sự thể hiện lợi ích cá nhân; còn cái bị kết án với tính cách là lợi ích cá nhân trên thực tế lại thể hiện những lợi ích hiện thực của hàng triệu người, phù hợp với lợi ích phát triển của đất nước và có ý nghĩa văn minh chung… Hệ tư tưởng thống trị buộc con người kết án, đàn áp kẻ tư hữu trong bản thân mình, còn những gì hợp với suy nghĩ lành mạnh, lợi ích của mình, thì bị tuyên bố là tàn dư của quá khứ hủ bại, hoặc là kết quả của ảnh hưởng bệnh hoạn từ phương Tây.

Để sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên rất cần những đột phá trong lĩnh vực tư duy lý luận, xoá dần những “vùng cấm” không đáng có, chấm dứt tính trạng “bao sân” về lý luận như thời trước, ngăn chặn những biểu hiện giáo điều lẫn không tưởng, căn bệnh cố chấp, áp đặt lẫn chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, không chỉ chống “diễn biến hòa bình” mà cần cảnh giác đối với “tự diễn biến hòa bình” dưới những biến thái tinh vi. Thiết nghĩ, chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, nhưng lại đóng vai “kiên định lập trường”, đóng vai “trung thành với những nguyên tắc”, ngày càng dễ nhận biết do trình độ nhận thức của nhân dân không ngừng được nâng cao trong một thế giới mở như hiện nay. Chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa duy tâm chính trị cũng là biểu hiện của chệch hướng, của tự diễn biến hòa bình về mặt lý luận, bởi lẽ đã xa rời linh hồn sống của chủ nghĩa Mác – phép biện chứng. Do cách hiểu một chiều và đơn giản về chủ nghĩa xã hội mà hàng chục triệu người khắp nơi trên thế giới nhìn nhận sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô một cách đau đớn, song thực ra chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa vẫn còn chưa hiện diện, với đầy đủ diện mạo của nó.

Thứ ba, trong quá trình tìm hiểu hoạt động của nhà nước, nguyên tắc tổ chức của nó, thường xuất hiện vần đề tính hợp pháp của việc sử dụng quyền lực nhà nước để hiện thực hóa các lý tưởng cơ bản của con người như công bằng, bình đẳng, tự do. Các lý tưởng có thể mâu thuẫn nhau do tính phức tạp của đời sống, song chính vì thế nhà nước cần phải điều tiết, thậm chí sử dụng cả biện pháp cưỡng chế đối với các công dân. Tính tích cực của biện pháp này nằm ở mục tiêu ổn định chính trị và phát triển có định hướng. Nghĩa vụ của xã hội là bảo đảm cho các thành viên những điều kiện cho một cuộc sống xứng đáng với con người. Do đó tính công dân không chỉ là một định chế pháp lý, mà còn là một trạng thái xã hội.

Sự bình đẳng trước pháp luật và cùng với nó là các quyền công dân trong nhà nước pháp quyền chỉ là một phần cần được bổ sung thêm bởi các quyền chính trị và kinh tế – xã hội. Rõ ràng việc bảo đảm tự do thực sự trong xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân trở thành công dân không chỉ ở phương diện luật pháp và chính trị mà cả ở phương diện xã hội. Bình đẳng chính trị – đó không phải là mục đích tự thân mà là điểm xuất phát, tạo nên những điều kiện lựa chọn như nhau đối với tất cả. Nó là nền tảng mà trên đó sự tự do được thể hiện. Tự do vẫn chỉ là mơ ước, nếu điều kiện cho sự phát triển tự do của con người chưa được xác lập. Không gian chính trị tự do cho con người chỉ được mở ra khi nào sự bất công, bất bình đẳng được khắc phục, khi nào sự phân cực xã hội gay gắt không còn nữa.

Thứ tư, trật tự luật pháp đòi hỏi tính nghiêm minh; để thực hiện tính nghiêm minh, thì quyền lực phải rành mạch, không chồng chéo nhau, nghĩa là đòi hỏi sự phân quyền; để sự phân quyền đạt được kết quả tích cực, cần có cơ chế dư luận xã hội, nghĩa là cần đến tính công khai. Đến lượt mình thông qua sự phản hồi trực tiếp và kênh thông tin đại chúng này mà trật tự luật pháp được củng cố… Điều cần thiết đối với một nhà nước là đạt được sự nhất trí cao giữa hệ thống vận hành của nó với các nguyên tắc pháp quyền. Chính ở đây diễn ra mối quan hệ hài hòa giữa khả năng của tự do và sự tuân thủ mệnh lệnh tuyệt đối (tức quy luật đạo đức): giá trị tăng cao nhất của cá nhân là hoạt động tự do trong một môi trường lành mạnh, nơi con người tạo ra luật cho mình và tuân thủ luật (nguyên tắc tự chủ và nguyên tắc tự nguyện). Không có sự trói buộc mà chỉ có tính tất yếu và hoạt động phù hợp với quy luật, nghĩa là con người tự do. Không một thể chế chính trị nào là tuyệt đối hoàn thiện cũng như không một cá nhân nào là tuyệt đối tốt. Ai tuyên bố mình luôn đúng, kẻ đó đã chết về mặt đạo đức. Vấn đề là ở chỗ cái ác cố hữu ở mỗi người có thể bùng phát bất cứ lúc nào, nếu không có cơ chế kềm hãm và giáo hóa, khơi dậy mặc cảm và tội lỗi ở nó và hướng nó đến cái thiện. Đối với vấn đề tự do cũng vậy, giữa khao khát tự do và lạm dụng tự do chỉ có một khoảng cách ngắn, một ranh giới mong manh.

Thứ năm, trong thời đại hiện nay các yếu tố đạo đức trong hoạt động chính trị, các yếu tố chính trị trong sinh hoạt đạo đức gắn kết với nhau, phản ánh những điều kiện cần thiết và những nhu cầu hoàn thiện thế giới chính trị, mở rộng nội hàm của các chuẩn mực đạo đức. Không thể chấp nhận sự tồn tại của thứ chính trị phi đạo đức kiểu Machiavelli4, cũng như chính trị hóa đạo đức lẫn đạo đức hóa chính trị mà lịch sử từng chứng kiến.

Bất kỳ hệ thống chính trị – xã hội nào, bất kỳ chế độ nào cũng đều không thể tồn tại lâu dài mà thiếu chính thống hóa, cái về phần mình không thể tồn tại nếu không tuân thủ những chuẩn mực sơ đẳng về công bằng. Hơn nữa, công bằng là một trong những hòn đá tảng của bất kỳ học thuyết về tính chính thống nào. Điều cần thiết nhất là không nên đối lập một cách siêu hình lĩnh vực chính trị và đạo đức, thế giới hiện có như một thực tại và thế giới đạo đức như những mệnh lệnh của lương tâm và nhân cách. Do đó, để cải cách tổ chức tổ máy hành chính Nhà nước thành công cần phải xác định rõ ràng mối quan hệ giữa “Nhà nước pháp quyền” (mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước) với “Nhà nước kiến tạo, phát triển” (sứ mệnh của Nhà nước) và “quản trị quốc gia” (cách thức tổ chức quyền lực nhà nước).

Chú thích:
1. P.P. Viseslavsev, Khủng hoảng văn hóa, Chủ nghĩa Mác, Chủ nghĩa xã hội mới và Chủ nghĩa tự do mới, New York, 1982, tr. 233.
2. Nhà triết học vĩ đại của Triết học Cổ điển Đức và nhân loại.
3. Nhà triết học duy tâm khách quan của Hy Lạp cổ đại.
4. Nhà tư tưởng thời Phục hưng, nổi tiếng với tác phẩm Quân vương.
Tài liệu tham khảo:
1. Tạp chí các khoa học chính trị xã hội, 11/1990 (tiếng Nga, bản dịch của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch).
2. Tạp chí các vấn đề triết học, 01/1991 (tiếng Nga, bản dịch của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch).
3. Tạp chí các vấn đề triết học, 3/1991 (tiếng Nga, bản dịch của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch).
4. G. Đềriđa. Những bóng ma của Mác. H. NXB Chính trị Quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994.
5. K.G. Kaiser. Why Gorbachev Happened? NewYork, 1992.
6. Kỷ yếu Hội thảo bàn tròn Việt Nga, TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2000.
7. V.I. Lênin. Toàn tập. Tập 42. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.
8. V.I.Lênin. Toàn tập. Tập 45. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
9. C.Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
10. Đinh Ngọc Thạch. Đề tài nghiên cứu khoa học “Bước đầu tìm hiểu sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô qua một số tư liệu từ Liên Xô (trước đây), Nga và phương Tây, TP. Hồ Chí Minh, 2000.