Phát triển nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

TS. Lê Khánh Cường
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới, Việt Nam cần phát triển nông nghiệp bền vững thông qua phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Do đó, Việt Nam cần học hỏi từ mô hình nông nghiệp công nghệ cao của các quốc gia khác và đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, gồm: đổi mới phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu và đào tạo, cập nhật nội dung và phương thức đào tạo theo tiến bộ công nghệ, thúc đẩy đào tạo đa ngành và tạo sự liên kết giữa các lĩnh vực, ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp được xem là một ngành sản xuất cơ bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang trong quá trình phát triển. Ngay cả trong những quốc gia có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP không cao, sản lượng nông sản của họ vẫn đáng kể và không ngừng tăng lên. Điều này bảo đảm rằng, họ có đủ nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm cần thiết để đáp ứng nhu cầu sống của dân số và duy trì sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.

Ở Việt Nam, ngành Nông nghiệp đã đạt được sự tiến bộ đáng kể từ thời kỳ đổi mới cho đến nay. Trong bối cảnh dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng và xuất hiện những thách thức do dịch bệnh và xung đột vũ trang…, vai trò của ngành Nông nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, sản phẩm nông nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường, phải bảo đảm chất lượng về vệ sinh và giá cả hợp lý. Điều này đòi hỏi một chiến lược phát triển bền vững để thay đổi tình hình nông nghiệp tại Việt Nam, trong đó, cần có nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Nông nghiệp.

Khái quát về nông nghiệp công nghệ cao

Các khái niệm liên quan đến nông nghiệp công nghệ cao.

Theo Điều 3 Luật Công nghệ cao năm 2008, nông nghiệp công nghệ cao là một loại hình nông nghiệp hiện đại sử dụng các tiến bộ công nghệ mới trong quá trình sản xuất. Đây bao gồm sự áp dụng của nhiều công nghệ khác nhau như công nghiệp hóa nông nghiệp (sử dụng máy móc trong quá trình sản xuất), tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và việc sử dụng giống cây trồng và giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao.

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao năm 2008, hoạt động công nghệ cao là hoạt động nghiên cứu, phát triển, tìm kiếm, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao; đào tạo nhân lực công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao; phát triển công nghiệp công nghệ cao. Khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao năm 2008, sản phẩm công nghệ cao là sản phẩm do công nghệ tạo ra, có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện môi trường. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là việc ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến vào các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm an toàn thực phẩm và có khả năng cạnh tranh so với sản phẩm truyền thống.

Tại khoản 10 Điều 3 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ vào sản xuất một loại nông sản hàng hóa.

Theo khoản 1 Điều 32 Luật Công nghệ cao năm 2008, khu nông nghiệp công nghệ cao là khu công nghệ cao tập trung hoạt động ứng dụng thành tựu nghiên cứu và công nghệ cao thực hiện nhiệm vụ chọn tạo, nhân giống cây trồng, giống vật nuôi cho năng suất, chất lượng, phòng trị bệnh cây trồng, vật nuôi; tạo ra vật tư, máy móc, thiết bị sử dụng trong nông nghiệp, bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và dịch vụ công nghệ cao phục vụ nông nghiệp. Luật Công nghệ cao năm 2008 cũng quy định rõ, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có 5 chức năng cơ bản: nghiên cứu ứng dụng; thử nghiệm; trình diễn công nghệ cao; đào tạo nguồn nhân lực; sản xuất sản phẩm ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, chức năng thử nghiệm, trình diễn, sản xuất sản phẩm ứng dụng công nghệ cao là chức năng phổ biến, 2 chức năng còn lại tùy theo đặc điểm từng khu nông nghiệp..

Đặc điểm của nông nghiệp công nghệ cao.

Theo Luật Công nghệ cao năm 2008 và trong bối cảnh thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ tiêu nông nghiệp công nghệ cao bao gồm các yếu tố sau:

(1) Ưu tiên phát triển các công nghệ chính như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa.

(2) Tạo điều kiện cho việc phát triển chọn giống, phòng trừ dịch bệnh và nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, cần thúc đẩy việc sản xuất thiết bị nông nghiệp, quá trình bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp sử dụng công nghệ cao.

(3) Sản phẩm nông nghiệp cần đạt chất lượng cao, năng suất tốt, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế.

(4) Áp dụng các biện pháp thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng để bảo đảm sự bền vững trong sản xuất nông nghiệp và giảm tác động đến môi trường.

(5) Tạo điều kiện và đầu tư vào việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo những chuyên gia có kiến thức và kỹ năng cần thiết để áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.

Theo Quyết định số 66/2015/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục công nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các tiêu chí xác định vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, gồm:

(1) Tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo mô hình chuỗi giá trị, trong đó tổ chức đầu mối trong vùng có thể là doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong vùng và ký kết hợp đồng để thực hiện việc liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp của vùng.

(2) Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong vùng nên tập trung vào các nhóm sản phẩm sau: giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu xuất sắc; sản phẩm nông, lâm, thủy sản cần có giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế cao và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, khu vực, hoặc quốc gia (Viet GAP) về chất lượng sản phẩm.

Thực trạng đào tạo nhân lực nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam

Thực trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.

Nhận thức về tầm quan trọng của nông nghiệp công nghệ cao, Chính phủ đã ban hành nhiều đề án và chương trình nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện đại, bao gồm: sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng cao, hiệu quả và khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Trong lĩnh vực Nông nghiệp, Việt Nam đã tăng cường chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến. Các biện pháp hiệu quả trong phòng, trừ sâu bệnh đã giúp tăng cả sản lượng và chất lượng của nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế. Đặc biệt, hơn 80% gạo xuất khẩu đã được phân loại là gạo chất lượng cao, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2021 trong bối cảnh các nhà giao dịch chú ý đến nguồn cung mới để đáp ứng nhu cầu gia tăng, trong khi lãi suất mới từ Nhật Bản đã hỗ trợ thị trường Thái Lan1.

Trong lĩnh vực lâm nghiệp, có sự phát triển đáng kể với tốc độ tăng trưởng ổn định. Ngành đã đạt được sự tự chủ về nhiều công nghệ tiên tiến và thiết lập các dây chuyền chế biến và bảo quản sản phẩm với chất lượng tương đương với sản phẩm nhập khẩu. Lĩnh vực chăn nuôi đã chứng kiến sự chuyển biến rõ rệt về tổ chức sản xuất, chăn nuôi tại trang trại, gia trại, và sự tập trung vào chuỗi giá trị khép kín. Ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến cùng với công nghệ cao đã thúc đẩy phát triển nhiều mô hình chăn nuôi hữu cơ và làm cho chúng trở nên phổ biến và nhân rộng. Công nghệ chế biến thủy sản cũng được đầu tư mạnh mẽ để đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế.

Các kết quả này đã đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh chóng của kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Hết quý II/2023 có rau quả, gạo và hạt điều là những sản phẩm tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu. Cụ thể: rau quả tăng 80%; gạo (tăng 22,2% về khối lượng và tăng 34,7% giá trị xuất khẩu), hạt điều (tăng 10,5% khối lượng và tăng 7,7% giá trị xuất khẩu) so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu rau quả tháng 6/2023 ước tính đem về gần 0,95 tỷ USD, tăng 2,6 lần so với tháng 6/2022. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu rau quả ước đạt 2,8 tỷ USD2.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, xuất khẩu gạo trong tháng 6/2023 đem về 300 triệu USD. Lũy kế 6 tháng, xuất khẩu gạo được 4,2 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,32 tỷ USD. Giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 517 USD/tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2022 (489 USD/tấn). Trong nửa đầu năm 2023, Phi-líp-pin là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,4% (tăng 40,6% về khối lượng và tăng 53,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước). Trung Quốc nhập khẩu gạo từ Việt Nam cũng tăng 93,2% về lượng và 116% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang ở mức bằng và cao hơn Thái Lan, Ấn Độ. Xuất khẩu nông, lâm thủy sản đạt gần 25 tỷ USD3.

Trong việc áp dụng công nghệ cao vào nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tăng năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu với thời tiết khắc nghiệt. Các công nghệ như: nhân giống in vitro đã được áp dụng rộng rãi trong nhân giống cây lâm nghiệp, cây hoa và cây chuối, giúp giảm giá thành cây giống và sản xuất lô cây giống đồng đều và không bị bệnh. Nhiều sản phẩm sinh học đã được nghiên cứu và sử dụng trong nông nghiệp để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và vật nuôi, giảm nguy cơ dịch bệnh và thay thế dần thuốc hóa học.

Nông nghiệp công nghệ cao cũng giúp nông dân trở nên chủ động hơn trong sản xuất, giảm sự phụ thuộc vào thời tiết và khí hậu. Sử dụng công nghệ như: nhà kính, tưới nhỏ giọt, đèn LED, công nghệ cảm ứng, internet vạn vật, giúp người sản xuất có sự chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất, giảm tính mùa vụ và rủi ro từ thời tiết và sâu bệnh, đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.

Thực trạng về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.

Để xây dựng một nền nông nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện và hiện đại, việc phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao là một yếu tố quan trọng và then chốt để tạo ra những bước tiến đột phá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đồng thời thích ứng với yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Thực tế đã chứng minh, nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao tại Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý III/2023 là 52,4 triệu người, tăng gần 100 nghìn người so với quý trước và hơn 0,5 triệu người so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, con số này ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn đều tăng (tăng tương ứng là 82 nghìn người và 10,7 nghìn người), lực lượng lao động nữ giảm 253,5 nghìn người, trong khi đó lực lượng lao động nam tăng gần 346 nghìn người. Tính chung 9 tháng năm 2023, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm đạt 51,2 triệu người, tăng 776,0 nghìn người so với 9 tháng năm 2022. Sự phát triển này đã đóng góp tích cực vào việc cải thiện cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sự cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp4.

Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển của nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao tại Việt Nam vẫn đối mặt với một số hạn chế và bất cập. Nhận thức về tầm quan trọng của nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao, trách nhiệm trong việc đào tạo và phát triển đối tượng này vẫn còn thiếu và cần có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp trong thời gian tới.

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) đã đề ra mục tiêu đào tạo nghề nông thôn cho trên 50% lao động. Tuy nhiên, đến quý III/2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 27,3% (tăng 0,5 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Như vậy, tính đến quý III/2023, cả nước vẫn còn 38,1 triệu người lao động chưa qua đào tạo. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động5. Do đó, việc xây dựng các chính sách và chương trình đào tạo cụ thể là yêu cầu rất cấp thiết trong thời gian tới. Chất lượng đào tạo nghề chưa cao và chưa đạt được sự đột phá trong việc tăng cường năng suất lao động trong ngành nông nghiệp, điều này có tác động đáng kể đến hiệu suất phát triển nông nghiệp.

Hơn nữa, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp chỉ đạt 38,1% so với năng suất lao động của các ngành kinh tế khác6. Điều này đang dẫn đến việc lao động trong khu vực nông nghiệp kéo năng suất lao động của Việt Nam giảm so với các khu vực khác trên thế giới. Tất cả những điều này thể hiện chất lượng nguồn nhân lực nông thôn vẫn cần được nâng cao và việc đào tạo lao động nông thôn cần được tập trung vào việc cung cấp kiến thức và kỹ năng nghề cao hơn để phù hợp với nhu cầu thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề vẫn còn nghèo nàn và thiếu tính đồng bộ. Điều này dẫn đến nhiều lao động vẫn thụ động trong việc đăng ký học nghề, chọn nghề và tiếp cận khoa học – kỹ thuật cũng như cơ giới hóa để thay đổi tập quán sản xuất cũ.

Ngoài ra, vấn đề này không chỉ tồn tại tại Việt Nam mà còn là một thách thức phổ biến ở nhiều quốc gia khác. Dự báo cho tương lai, xu hướng sử dụng hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước đang gia tăng. Điều này đặt ra những thách thức đáng kể cho ngành Nông nghiệp của Việt Nam. Để thích ứng và phát triển trong bối cảnh hiện nay, ngành Nông nghiệp cần hướng đến một mô hình nông nghiệp thông minh, tri thức và ứng dụng công nghệ cao để tận dụng tài nguyên một cách hiệu quả, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và bảo đảm phát triển bền vững. Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao vẫn là vấn đề cốt yếu trong quá trình hiện đại hóa ngành Nông nghiệp của Việt Nam.

Giai đoạn 2016 – 2021, thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Kế hoạch số 463/KH-BCSĐ ngày 18/6/2018 của Ban cán sự Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, công tác sắp xếp các cơ sở đào tạo thuộc Bộ đã được triển khai tích cực. Đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 12 cơ sở đào tạo đại học và sau đại học (gồm 4 đại học/học viện và 8 viện nghiên cứu), 28 trường cao đẳng và 2 trường cán bộ quản lý7. Tổng số có 40 cơ sở đào tạo cấp bằng từ bậc tiến sỹ đến đến bậc sơ cấp. Các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ đã hình thành mạng lưới các trường, cùng với các phân hiệu bố rộng khắp tại nhiều vùng kinh tế trên cả nước. Bộ đã đầu tư xây dựng mạng lưới các trường cao đẳng chất lượng cao (gồm 8 trường chất lượng cao, tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế). Thời gian qua, các trường đại học cũng đã chú trọng công tác quảng bá tuyển sinh, mở rộng nhiều ngành đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu của xã hội và người học.

Những nỗ lực, kết quả trên đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, góp phần quan trọng cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nền móng đưa Việt Nam có vị trí trong số những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam

Trong bối cảnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một yếu tố quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu này, cần có sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và người lao động. Các giải pháp được đề xuất bao gồm:

Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý nhà nước. Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao và bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao, Chính phủ tạo cơ chế và chính sách đặc thù để ủng hộ phát triển khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; khuyến khích hợp tác giữa các tổ chức và doanh nghiệp, đặc biệt là các trung tâm nghiên cứu; phát triển đội ngũ chuyên gia về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tạo chính sách thu hút cán bộ khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng các lớp đào tạo nghề nông nghiệp; nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của đào tạo nghề trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp.

Thứ hai, về phía doanh nghiệp. Kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp cần tương tác đa chiều. Doanh nghiệp cần tham gia vào việc xác định chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo để bảo đảm rằng người học được đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tế và sự phát triển của doanh nghiệp nông nghiệp. Cần thiết kế chính sách thu hút và giữ chân người lao động một cách hợp lý, bao gồm mức lương cạnh tranh, các phúc lợi và chế độ làm việc linh hoạt; khuyến khích sáng tạo và hợp tác trong nhân viên, tạo điều kiện cho họ đưa ra ý tưởng mới và đóng góp ý kiến; sử dụng công nghệ số trong quản trị nội bộ để nâng cao hiệu suất và hiệu quả trong hoạt động sản xuất; thực hiện dự báo nhu cầu nguồn nhân lực để bảo đảm rằng các cơ sở đào tạo liên kết có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguồn nhân lực trong nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ ba, về phía cơ sở đào tạo. Cần tận dụng các công nghệ mới đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm công nghệ sinh học, công nghệ số, tự động hóa, cơ khí chính xác và vật liệu mới, và tích hợp chúng vào các chương trình đào tạo dài hạn. Điều này bảo đảm rằng sinh viên được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ tư, về phía người lao động. Để thích ứng với sự phát triển của công nghệ hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp, người lao động cần tích lũy kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức về công nghệ. Việc đào tạo và nâng cao kỹ năng cho họ là một quá trình không thể thiếu và cần diễn ra liên tục.

Kết luận

Trong bối cảnh hiện nay, việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là một xu hướng không thể tránh khỏi. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mang lại nhiều tiến bộ trong lĩnh vực công nghiệp điện tử – tin học, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Sự phát triển này có ứng dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp, từ quản lý nông trại đến tạo ra các giải pháp thông minh cho nông nghiệp.

Để đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp thông minh, việc đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng, phẩm chất và thái độ đúng là quan trọng. Nguồn nhân lực chất lượng cao này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp.

Để thực hiện được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và người lao động. Mọi bên cần đóng góp để bảo đảm rằng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn và đòi hỏi của thế giới hội nhập kinh tế quốc tế.

Chú thích:
1. Giá gạo xuất khẩu Việt Nam cao nhất thế giới. https://tapchicongthuong.vn, 02/6/2023.
2, 4, 5, 6. 6 tháng đầu năm, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt gần 25 tỷ USD. https://doanhnghieptiepthi.vn, ngày 01/7/2023.
3. Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt gần 25 tỷ USD. https://vneconomy.vn, ngày 29/6/2023.
7. Hội nghị hợp tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn. https://mard.gov.vn, ngày 11/7/2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Công nghệ cao năm 2008.
2. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
3. Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
4. Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020.
5. Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
6. Quyết định số 66/2015/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thẩm quyền trình tự công nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.