Nguồn lực thể chế – góc nhìn trong tiến trình quy hoạch Thủ đô Hà Nội, kinh nghiệm cho thời kỳ phát triển mới

TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị – hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Lập quy hoạch Hà Nội có sứ mệnh và vị trí quan trọng, then chốt của Hà Nội và của cả nước. Bên cạnh các nguồn lực về tài chính, kinh tế, con người thì thể chế đã và đang được xác định là nguồn lực quan trọng trong quy hoạch Thủ đô. Trong khuôn khổ bài viết, thuật ngữ “thể chế” được giới hạn là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh quá trình lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội.
Quy mô lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội khoảng 3.359,84 km2.
Tính cấp thiết phải quy hoạch Thủ đô Hà Nội và tầm quan trọng của nguồn lực thể chế trong quy hoạch

Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 tầm nhìn năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 (Quyết định 1259) với mục tiêu xây dựng Thủ đô “Xanh – Văn hiến – Văn minh – Hiện đại”, đô thị năng động, có môi trường sống, làm việc tốt, cơ hội đầu tư thuận lợi. Tuy nhiên, qua 12 năm thực hiện Quyết định 1259, Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả, song cũng bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Cụ thể, Đồ án quy hoạch chưa phát huy được vai trò, vị thế, tiềm năng và thế mạnh của Thủ đô Hà Nội trong vùng Thủ đô; quy mô dân số đã vượt ngưỡng dự báo; tỷ lệ đô thị hóa đạt thấp, chất lượng phát triển đô thị chưa đồng đều, dẫn đến những khó khăn trong việc phân bố, điều tiết, quản lý và kiểm soát dân cư; tiến độ triển khai các đô thị vệ tinh theo quy hoạch còn chậm; kết cấu hạ tầng đô thị chưa theo kịp nhu cầu phát triển đô thị, tính đồng bộ chưa cao.

Theo định hướng quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, quy mô dân số đến năm 2020 khoảng 7,3 triệu đến 7,9 triệu người, nhưng thực tế đến năm 2020, quy mô dân số đã đạt 8,24 triệu người. Dự báo đến năm 2030, quy mô đạt khoảng 11,4 triệu đến 11,9 triệu người; đến năm 2045 khoảng 13,7 triệu đến 14,6 triệu người. Ngoài ra, việc tạo lập khu vực “hành lang xanh” với tỷ lệ 70% quỹ đất toàn Thành phố đã tạo nên những giới hạn của sự phát triển đô thị… “Do đó, việc nghiên cứu, điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô để phù hợp với tình hình thực tiễn của Thành phố và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của trước mắt và lâu dài là rất cần thiết”1.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng xác định phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn. Phát triển đô thị phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, theo quy hoạch dài hạn, không khép kín theo ranh giới hành chính và xử lý đúng mối quan hệ giữa đô thị hoá và hiện đại hoá nông thôn; nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị và đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở các đô thị lớn; hỗ trợ quy hoạch, xây dựng, tổ chức tốt hơn các điểm dân cư nông thôn theo hướng sạch, đẹp, văn minh; đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, đô thị liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển; đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị; tăng tính kết nối giữa các đô thị trong nước và khu vực; gắn kết phát triển đô thị và nông thôn.

Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã định hướng chỉ đạo: quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị… Đây là các văn bản rất quan trọng, thể hiện định hướng lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quy hoạch, quản lý đô thị, tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, phát triển đô thị và nông thôn và định hướng hoàn thiện các quy định quản lý đối với lĩnh vực này.

Thể chế đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong quá trình lập quy hoạch đô thị và phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô. Thể chế sẽ là cơ sở, tiền đề để xây dựng, phê duyệt và thực hiện quy hoạch; là phương tiện để huy động các nguồn lực khác, là cơ sở xác định thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân, các cấp, các ngành trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. Bên cạnh đó, pháp luật sẽ cung cấp một khung quy định rõ ràng, giúp xác định các quyền và trách nhiệm của các bên tham gia quy hoạch, bảo vệ quyền lợi của cộng đồng và cá nhân. Đồng thời, tạo ra sự minh bạch và công bằng trong quá trình quy hoạch, ngăn chặn sự thiếu minh bạch, tham nhũng và lạm quyền.

Pháp luật là công cụ quản lý và điều tiết quy hoạch Thủ đô, giúp bảo đảm các dự án quy hoạch phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, an toàn, và phát triển bền vững. Bằng cách này, thể chế bảo đảm quy hoạch đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chí cần thiết để bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng.

Như vậy, thể chế đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm sự phát triển bền vững và hài hòa của các khu vực đô thị và kinh tế – xã hội; đồng thời bảo vệ quyền lợi của cộng đồng và bảo đảm cho quy hoạch được thực hiện theo cách có lợi cho xã hội, trong một môi trường pháp lý ổn định và minh bạch.

Thực tiễn về thể chế quy hoạch Thủ đô Hà Nội hiện nay

Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) đã mở ra thời kỳ phát triển mới của Hà Nội và đất nước. Trung ương và chính quyền thành phố khẳng định cần sớm có quy hoạch chung Thủ đô để định hướng cho việc xây dựng. Dựa trên quy hoạch chung của Thủ đô Hà Nội tại Quyết định số 163/CP ngày 17/7/1976, các xí nghiệp công nghiệp được cải tạo và mở rộng. Trong nội thành, nhiều khu nhà ở, chung cư thấp tầng được xây dựng. Trường học, nhà trẻ với kiến trúc hiện đại, các công trình hạ tầng xã hội ngày càng nhiều.

Năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới. Trong đô thị nhiều yếu tố mới xuất hiện đòi hỏi phải có sự điều chỉnh quy hoạch. Giai đoạn 1978-1998, Hà Nội tiếp tục có 2 lần điều chỉnh quy hoạch (năm 1981 và 1992). Đặc biệt, đồ án quy hoạch mới đã được Chính phủ phê duyệt năm 1998 đã định hướng phát triển nội thành cả hai bên sông Hồng với quy mô dân số nội thành đến năm 2020 dự báo khoảng 2,5 triệu người.

Sau 10 năm thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, để tạo tiềm năng phát triển, giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/7/2008 hợp nhất Hà Nội, Hà Tây, 4 xã của tỉnh Hòa Bình, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, với quy mô diện tích 3.344km2. Hà Nội trở thành đô thị lớn nhất cả nước và là một trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Sau hơn 2 năm nghiên cứu, Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 (gọi tắt là Quy hoạch chung 1259)2.

Đến năm 2022, Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành (Nghị quyết số 15/NQ-TW), cùng với đó, ngày 07/3/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 313/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo yêu cầu, quy hoạch Thủ đô Hà Nội phải thể hiện được quan điểm đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, nhất là bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ giữa các ngành trên địa bàn; tận dụng tối đa lợi thế phát triển từ các dự án kết cấu hạ tầng động lực về giao thông, du lịch, dịch vụ đã có và đang nghiên cứu đầu tư. Tạo sự đột phát về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn nhân lực chất lượng cao, yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hệ thống quy định về quy hoạch nói chung, quy hoạch Thủ đô Hà Nội nói riêng được quy định trong các văn bản như:

Ở cấp độ luật, có: Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, Luật Thủ đô năm 2012, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Kiến trúc năm 2019, Luật Đầu tư công năm 2019, Luật Đầu tư năm 2020…

Ở cấp độ dưới luật: Nghị quyết số 110/NQ-CP ngày 02/12/2019 của Chính phủ về việc ban hành danh mục các quy hoạch được tích hợp vào quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch Thủ đô theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 59 Luật Quy hoạch; Nghị quyết số 69/NQ-CP ngày 13/9/2019 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2019; Nghị định số 37/2019/NĐ-CP ngày 07/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch; Nghị định số 91/2021/NĐ-CP về cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô để thi hành các quy định của pháp luật về Thủ đô; Nghị định số 63/2017/NĐ-CP quy định cơ chế, chính sách tài chính ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội; Quyết định số 313/QĐ-TTg ngày 07/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050;…

Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 quy định về các vấn đề chung nhất, có tính nguyên tắc của vấn đề quy hoạch đô thị; quy định về việc tổ chức lập quy hoạch và nội dung của từng loại quy hoạch; thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch và các đồ án quy hoạch đô thị; thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch và các đồ án quy hoạch đô thị; tổ chức thực hiện và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch; phân công thẩm quyền cho các cơ quan trong việc quy hoạch đô thị.

Luật Quy hoạch năm 2017 trực tiếp quy định về quy hoạch nói chung, quy hoạch đô thị nói riêng. Luật xác định nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch; mối quan hệ giữa các loại quy hoạch; trình tự trong hoạt động quy hoạch; thời kỳ quy hoạch; chi phí cho hoạt động quy hoạch; chính sách của nhà nước về hoạt động quy hoạch; hợp tác quốc tế trong hoạt động quy hoạch; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng, cá nhân trong việc tham gia ý kiến, giám sát hoạt động quy hoạch; các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quy hoạch.

Tại Chương II, Luật trực tiếp điều chỉnh về công tác lập quy hoạch, gồm 15 điều (từ Điều 14 – 28), quy định về thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch; nhiệm vụ lập quy hoạch; quy trình lập quy hoạch; tổ chức tư vấn lập quy hoạch; đánh giá môi trường chiến lược trong lập quy hoạch; lấy ý kiến về quy hoạch; căn cứ lập quy hoạch; yêu cầu về nội dung quy hoạch; nội dung quy hoạch tổng thể quốc gia; nội dung quy hoạch không gian biển quốc gia; nội dung quy hoạch sử dụng đất quốc gia; nội dung quy hoạch ngành quốc gia; nội dung quy hoạch vùng; nội dung quy hoạch tỉnh; nội dung quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn. Quyết định số 313/QĐ-TTg ngày 07/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là văn bản quy định trực tiếp về nhiệm vụ quy hoạch Thủ đô, vừa cụ thể hoá, chi tiết hoá các luật, nghị quyết, nghị định. Một số nội dung đáng chú ý của Quyết định số 313/QĐ-TTg, như sau:

Thứ nhất, khái quát về quy hoạch chung Thủ đô. Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; phạm vi quy hoạch với phần lãnh thổ Thủ đô Hà Nội với tổng diện tích tự nhiên là 3.358,6 km2. Việc lập quy hoạch phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ với mục tiêu, định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước thời kỳ 2021 – 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025 của cả nước, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia theo quy định của pháp luật về quy hoạch.

Thứ hai, về mục tiêu lập quy hoạch. Lập quy hoạch là căn cứ khoa học và công cụ pháp lý quan trọng để chính quyền các cấp của Thủ đô Hà Nội sử dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo, thống nhất công tác quản lý nhà nước và hoạch định chính sách, kiến tạo động lực phát triển; là cơ sở để xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, bảo đảm tính khách quan, khoa học; tổ chức không gian phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm tính kết nối đồng bộ giữa quy hoạch quốc gia với quy hoạch vùng và quy hoạch Thủ đô nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của thành phố, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.

Thứ ba, yêu cầu về nội dung lập quy hoạch Thủ đô. Việc lập quy hoạch Thủ đô phải bảo đảm định hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bố nguồn lực cho các hoạt động kinh tế – xã hội phải đồng bộ với quy hoạch cấp quốc gia, cấp vùng được cấp có thẩm quyền quyết định; bảo đảm tính liên kết, thống nhất đồng bộ với điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có giữa các ngành, các vùng liên huyện, các địa phương trên địa bàn Thủ đô; xây dựng và cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm sự phát triển cân bằng giữa kinh tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia.

Thứ tư, xác định nội dung quy hoạch Thủ đô. Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gồm 17 nội dung chính, trong đó có các nội dung quan trọng như phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện phát triển đặc thù của Thủ đô; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế – xã hội, hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng hệ thống đô thị và nông thôn; yêu cầu về quan điểm, mục tiêu và phương án phát triển; yêu cầu về phương án phát triển các ngành quan trọng; yêu cầu về phát triển trong điều kiện kết nối Hà Nội với các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô, vùng đồng bằng sông Hồng nhằm phát huy vai trò động lực phát triển của Thủ đô trong thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Thứ năm, về phương pháp lập quy hoạch. Hệ thống các phương pháp lập Quy hoạch phải đảm bảo tính tiếp cận tổng hợp, khoa học, phù hợp với thực tiễn, đa chiều, đa lĩnh vực và ứng dụng công nghệ hiện đại. Quyết định số 313/QĐ-TTg xác định 12 nhóm phương pháp, trong đó có các phương pháp sử dụng phổ biến, như: phương pháp nghiên cứu tại địa bàn; phương pháp khảo sát thực địa, phương pháp thông tin địa lý, bản đồ (GIS), phương pháp tích hợp quy hoạch.

Thứ sáu, về thành phần lập quy hoạch. Thành phần hồ sơ bằng văn bản, bao gồm: tờ trình thẩm định, phê duyệt quy hoạch Thủ đô; dự thảo Quyết định phê duyệt quy hoạch Thủ đô; báo cáo quy hoạch Thủ đô gồm báo cáo tổng hợp, báo cáo tóm tắt và các báo cáo liên quan; các phụ lục, sơ đồ, bản đồ, cơ sở dữ liệu về quy hoạch; báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường); các tài liệu, văn bản pháp lý có liên quan khác.

Thứ bảy, về phân công nhiệm vụ, quyền hạn trong lập quy hoạch Thủ đô. UBND thành phố Hà Nội được giao tổ chức lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 bảo đảm phù hợp quy định của Luật Quy hoạch và các quy định hiện hành, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, cơ quan liên quan được giao hướng dẫn, phối hợp với UBND thành phố Hà Nội triển khai thực hiện lập quy hoạch bảo đảm chất lượng, tiến độ và hiệu quả

Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Trung ương, Thành uỷ, HĐND và UBND thành phố Hà Nội đã nghiên cứu, ban hành nhiều văn bản (trong đó có một số văn bản quy phạm pháp luật) hướng dẫn, tổ chức triển khai nhiệm vụ quy hoạch Thủ đô. Một số văn bản đáng chú ý, như:

Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 23/9/2021 của HĐND thành phố Hà Nội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 đã xác định một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch nhằm phát triển đô thị hiện đại, thông minh, bền vững, gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong quản lý đô thị, trật tự xây dựng, văn minh đô thị. Xây dựng, trình phê duyệt quy hoạch thành phố Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Rà soát, tổng hợp quy hoạch, trình điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Thủ đô. Hoàn thành các quy hoạch phân khu đô thị sông Hồng, sông Đuống, các đô thị vệ tinh; quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị các khu dân cư làng xóm hiện có, cải tạo chỉnh trang, các khu vực hai bên tuyến đường giao thông. Lập các quy chế quản lý kiến trúc đô thị, nông thôn theo hướng xanh, hiện đại. Quy hoạch xây dựng khu vực nông thôn gắn với phát triển đô thị, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.

Quyết định số 837/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội ngày 04/3/2022 phê duyệt danh mục, kế hoạch lập các quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn thành phố, gồm 236 đồ án, nhóm đồ án, trong đó có một số quy hoạch quan trọng: quy hoạch chung đô thị (01 đồ án); quy hoạch phân khu đô thị (4 đồ án); quy hoạch chi tiết đô thị (146 đồ án, nhóm đồ án); thiết kế đô thị riêng (34 đồ án, nhóm đồ án); quy hoạch xây dựng vùng huyện (14 đồ án)…

Quyết định số 913/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội ngày 15/3/2022 phê duyệt quy hoạch chung không gian xây dựng ngầm đô thị trung tâm – thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỷ lệ 1/10.000. Địa điểm: thành phố Hà Nội. Quyết định xác định những vấn đề quan trọng, như: vị trí, ranh giới, quy mô nghiên cứu quy hoạch; mục tiêu quy hoạch; nội dung quy hoạch và trách nhiệm tổ chức thực hiện. Đặc biệt, ngày 04/4/2022, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 1138/QĐ-UBND về việc giao cơ quan lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, UBND thành phố giao Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Hà Nội là cơ quan lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017, Luật Đầu tư công năm 2019 và các quy định pháp luật có liên quan.

Theo quyết định này, Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế – xã hội thành phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Quy hoạch – Kiến trúc, Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội và các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã triển khai công tác lập quy hoạch Thủ đô. Viện tổ chức lựa chọn đơn vị tư vấn lập quy hoạch theo quy định của pháp luật về đấu thầu và các quy định pháp luật có liên quan; chủ trì phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan, UBND cấp huyện nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, phân tích đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện, nguồn lực, bối cảnh phát triển, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đề xuất các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu, các định hướng ưu tiên phát triển làm cơ sở lập quy hoạch.

Nhìn chung, thể chế quy hoạch nói chung, quy hoạch đô thị nói riêng cơ bản được ban hành đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, phát triển đô thị và khu chức năng, khai thác hiệu quả sử dụng đất, góp phần nâng cao chất lượng không gian, kiến trúc, cảnh quan, môi trường sống của người dân, đóng góp vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả nước và từng địa phương.

Đối với thành phố Hà Nội, việc Trung ương và thành phố ban hành nhiều văn bản pháp luật đã khắc phục được các tồn tại, bất cập trước đó, góp phần đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật về quy hoạch, làm cho hệ thống văn bản pháp luật của nước ta tiến gần hơn với hệ thống pháp luật về quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng tiên tiến trên thế giới. Các quy định pháp luật về quy hoạch Thủ đô đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực trong thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng, phát triển đô thị, tạo lập môi trường sống, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Tuy nhiên, quá trình tổ chức triển khai thực hiện các quy định pháp luật về quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng cũng đã phát sinh những tồn tại, hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong tổ chức thực hiện. Thể chế về quy hoạch thủ đô chưa tạo được đột phá lớn về phát triển kinh tế, nhất là phát triển bền vững theo chiều sâu; tăng trưởng thấp hơn so với mục tiêu đề ra; tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, quá tải về hạ tầng đô thị chưa được cải thiện rõ nét; phát triển văn hóa chưa tương xứng với truyền thống lịch sử; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công tuy cao hơn mức bình quân chung cả nước nhưng chưa đạt yêu cầu; việc lập các quy hoạch xây dựng còn chậm; huy động nguồn lực xã hội cho các hoạt động còn hạn chế; an ninh trật tự, tình trạng cháy nổ vẫn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp2.

Nghị quyết số 15/NQ-TW đánh giá thiều tiềm năng, lợi thế của Thủ đô vẫn chưa được đánh giá, khai thác, phát huy đầy đủ. Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững. Chưa hoàn thành một số mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng Nghị quyết đã đề ra. Hà Nội chưa thể hiện rõ vai trò là trung tâm, động lực tăng trưởng và phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; năng lực cạnh tranh còn thấp, nhất là so với khu vực và thế giới. Hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, xây dựng, phát triển đô thị, trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường còn hạn chế; phát triển kinh tế, xã hội, phát triển đô thị chưa toàn diện, thiếu đồng bộ; nhiều dự án lớn chậm được triển khai, gây lãng phí nguồn lực; việc quy hoạch xây dựng các đô thị vệ tinh không đạt kế hoạch… Liên kết, hợp tác giữa Thủ đô với các địa phương trong vùng và cả nước chưa hiệu quả.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do công tác quán triệt, thể chế hoá, triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị hiệu quả chưa cao. Một số cơ chế, chính sách đặc thù chưa phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, nhiệm vụ phát triển Thủ đô. Việc phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương đối với Thủ đô có mặt chưa hợp lý, thiếu thường xuyên, kịp thời.

Những kinh nghiệm và một số kiến nghị hoàn thiện về thể chế quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

(1) Về thể chế quy hoạch Thủ đô Hà Nội cho thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Hệ thống pháp luật về quy hoạch Thủ đô phải thể chế hoá được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các nghị quyết, văn kiện của Trung ương và nghị quyết của thành phố Hà Nội.

Thể chế quy hoạch Thủ đô phải bảo đảm không gian phát triển Thủ đô, phải được tổ chức khoa học, hiệu quả, thống nhất trên phạm vi thành phố, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh của địa phương trong vùng và toàn vùng; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thể chế quy hoạch Thủ đô phải kết hợp phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội và công bằng xã hội, bảo đảm chính trị, an ninh và quốc phòng. Bên cạnh đó, sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên đất và nước. Kết hợp phát triển nhanh với phát triển bền vững và nền kinh tế tuần hoàn. Phát triển Thủ đô với sự phát triển kinh tế, xã hội gắn với Chính phủ số, chính quyền số.

(2) Kiến nghị hoàn thiện thể chế quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Một là, tiếp tục rà soát các văn bản luật, văn bản dưới luật đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, đồng bộ, khả thi trong quy hoạch nói chung, quy hoạch Thủ đô Hà Nội nói riêng. Cụ thể là các luật, như: Luật Quy hoạch đô thị, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Thủ đô, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công, Luật Đất đai… cùng văn bản dưới luật, các văn bản của UBND thành phố Hà Nội. Phát hiện những điểm mâu thuẫn, chồng chéo hoặc những nội dung chưa được quy định, quy định chưa rõ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển Thủ đô, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp sớm hoàn thiện, trình Chính phủ cho ý kiến về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), phân cấp, phân quyền tối đa, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển Thủ đô, qua đó cụ thể hóa các nội dung được quy định tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị, bảo đảm tổng quát, bao trùm, khả thi, hiệu quả.

Hai là, tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá, chi tiết hoá hệ thống thể chế về quy hoạch, quy hoạch Thủ đô Hà Nội. Việc nghiên cứu, lập quy hoạch Thủ đô là nhiệm vụ chính trị to lớn, phức tạp, khó khăn và đầy trí tuệ, đòi hỏi không chỉ sự vào cuộc của các cơ quan, tổ chức, cá nhân của Hà Nội mà còn là trách nhiệm của cả trung ương và sự hỗ trợ, hợp tác của các tổ chức quốc tế. Do đó, thể chế về quy hoạch Thủ đô phải được xây dựng, hoàn thiện, bảo đảm không chỉ đúng, đủ, có tính đột phá mà còn đảm bảo sự chi tiết, cụ thể, bảo đảm quá trình triển khai được thuận lợi, nhịp nhàng. Thể chế quy hoạch Thủ đô phải thể hiện được tư duy đổi mới, tầm nhìn đột phá, chiến lược, dài hạn, phát huy được mọi tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, đồng thời giải quyết được các mâu thuẫn, tồn tại, hạn chế; tổ chức triển khai quy hoạch đô thị thật tốt, hiện đại và bản sắc, mở rộng không gian phát triển, phát huy tiềm năng, thế mạnh của Thành phố.

Ba là, nghiên cứu, ban hành Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn. Từ cơ sở lý luận, thực tiễn Việt Nam và yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới cho thấy việc ban hành Luật điều chỉnh về quy hoạch đô thị và nông thôn là hết sức cần thiết. Mục đích là tạo công cụ pháp lý đồng bộ, toàn diện, thống nhất, hiệu lực cao để điều chỉnh hoạt động quy hoạch đô thị và nông thôn đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị và nông thôn. Phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức, cá nhân và xã hội trong hoạt động quy hoạch đô thị và nông thôn, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, Nhân dân và xã hội. Về phạm vi điều chỉnh, Luật cần thể chế hoạt động quy hoạch đô thị và nông thôn gồm lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch tại khu vực đô thị, nông thôn, khu chức năng3.

Bốn là, ban hành mới các quy định về quy hoạch có tính đặc thù, quan trọng của Thủ đô, trong đó, Sông Hồng là trục xanh, cảnh quan trung tâm, phát triển đô thị hài hoà hai bên sông của Hà Nội. Nghiên cứu tăng tỷ lệ đất phát triển đô thị; xây dựng mô hình thành phố trực thuộc Thủ đô tại khu vực phía Bắc (vùng Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn) và phía Tây (vùng Hoà Lạc, Xuân Mai); xây dựng đô thị thông minh trên cơ sở phát triển khu vực hai bên trục Nhật Tân – Nội Bài; tập trung triển khai quy hoạch, đầu tư xây dựng, ổn định dân cư hai bên bờ Sông Hồng và Sông Đuống; quy hoạch phát triển không gian ngầm đô thị, không gian xanh và không gian công cộng. Quy hoạch xây dựng khu vực nông thôn hài hoà, gắn với phát triển đô thị, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống, kết nối đồng bộ với quy hoạch khu vực đô thị; khai thác hiệu quả cảnh quan thiên nhiên vùng nông thôn kết hợp với phát triển du lịch xanh.

Chú thích:
1. Vì sao phải điều chỉnh quy hoạch Thủ đô? https://cand.com.vn, truy cập 19/9/2023.
2. Quy hoạch Hà Nội – tự hào chặng đường lịch sử. https://hanoimoi.vn. Truy cập 26/10/2023.
3. Hà Nội tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển Thủ đô bền vững. http://quocphongthudo.vn, truy cập 26/10/2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Luật Quy hoạch đô thị năm 2009.
3. Luật Quy hoạch năm 2017.
4. Quyết định số 313/QĐ-TTg ngày 07/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.