Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về nhãn hiệu

Nguyễn Thị Trúc Duyên
Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về nhãn hiệu thông qua quá trình áp dụng pháp luật, từ những vụ án thực tế và nhu cầu xã hội hiện nay, bài viết đưa ra một số kiến nghị về nhãn hiệu như: mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ là nhãn hiệu; hoàn thiện quy định về điều kiện nhãn hiệu được cấp phép bảo hộ; hoàn thiện quy định về việc xác định phạm vi bảo hộ nhãn hiệu; hoàn thiện quy định về việc công nhận, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam; hoàn thiện quy định về thủ tục cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu để góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhãn hiệu tại Việt Nam.
Đặt vấn đề

Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã gia nhập nhiều điều ước quốc tế, cũng như các Hiệp định thương mại quốc tế, đây là một trong những lý do chính thúc đẩy các quy định pháp luật của Việt Nam phải thay đổi để phù hợp với pháp luật quốc tế; đồng thời, có những điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh trong xã hội và sửa chữa những quy định còn chưa hợp lý, gây cản trở cho hoạt động phát triển hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nói riêng và quá trình phát triển kinh tế – xã hội đất nước nói chung một cách kịp thời.

Kinh nghiệm lập pháp của một số nước phát triển, như: Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ,… có cách hiểu về nhãn hiệu một cách không hạn chế trong khuôn khổ, chỉ cần bảo đảm được tính chất của nhãn hiệu là dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ có gắn nhãn giữa các doanh nghiệp với nhau. Tiếp theo là về vấn đề giải quyết tranh chấp trong chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, cũng như bảo hộ về nhãn hiệu. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước,như: Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản,… đều đã thành lập các tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ để giải quyết mọi vấn đề liên quan và rất có hiệu quả.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn còn cơ chế trọng tài nhưng không phải tất cả các trường hợp đều áp dụng cơ chế trọng tài, trong một số trường hợp vẫn lựa chọn tòa án là cơ quan xét xử, do vậy việc trang bị kiến thức pháp luật về sở hữu trí tuệ để bảo đảm được ý nghĩa của nhãn hiệu là điều cần thiết.

Về quy định kiểm soát chất lượng hàng hóa, dịch vụ của hàng hóa, dịch vụ được gắn nhãn cùng là điều cần thiết trong các vấn đề về bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong Luật Sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu chưa có quy định điều chỉnh cụ thể vấn đề này.

Mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ là nhãn hiệu

Việc xác định phạm vi đối tượng được bảo hộ của nhãn hiệu có một ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng và thực thi pháp luật. Cụ thể, theo pháp luật hiện hành đã có những quy định về các dấu hiệu có thể được đăng ký bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu được quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ: là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa.

Pháp luật về nhãn hiệu hiện hành có thay đổi đáng kể, đã mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh có thể là dấu hiệu âm thanh khi được thể hiện dưới dạng đồ họa. Tuy nhiên, tất cả các dấu hiệu để được bảo hộ vẫn buộc phải chuyển đổi thể hiện dưới dấu hiệu có thể nhìn thấy được, nhưng tại Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) quy định: “Không bên nào được quy định rằng, dấu hiệu phải được nhìn thấy bằng mắt như một điều kiện để đăng ký, cũng không được từ chối việc đăng ký nhãn hiệu là một âm thanh đơn thuần. Ngoài ra, mỗi bên phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi hương. Một bên có thể đòi hỏi một mô tả ngắn gọn và chính xác hoặc đại diện đồ họa của nhãn hiệu, hoặc cả hai nếu có thể”1.

Việc cần có những chế định kịp thời và phù hợp là cần thiết để mở rộng đối tượng được bảo hộ của nhãn hiệu có thể là hương thơm, hương vị, thêm vào đó có thể mở rộng thêm quy định về các dấu hiệu không được thể hiện dưới dấu hiệu nhận thấy bằng thị giác, thay vào đó thể hiện dưới dạng thính giác (sản phẩm là đoạn âm thanh) hoặc khứu giác (một sản phẩm mang hương thơm).

Bên cạnh việc mở rộng phạm vi, đối tượng được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu cũng có những thách thức nhất định đối với Việt Nam hiện nay trước các yêu cầu, điều kiện để thực hiện kiểm chứng âm thanh, mùi vị, hương vị rất quan trọng. Trong khi, Việt Nam chưa phát triển về điều kiện trang thiết bị để có thể thực hiện các yêu cầu về việc kiểm chứng các âm thanh, hương vị, mùi vị, do vậy dù pháp luật có những bước tiến bộ trong việc công nhận bảo hộ âm thanh với danh nghĩa là nhãn hiệu nhưng vẫn cần phải thể diện dưới dạng đồ họa – có thể nhận thấy bằng thị giác để được hiện kiểm chứng, đánh giá các dấu hiệu có thỏa mãn các điều kiện của bảo hộ nhãn hiệu hay không để đưa ra quyết định cho việc cấp văn bằng bảo hộ. Tương tự về các dấu hiệu về âm thanh thì các dấu hiệu về mùi hương, mùi vị cũng cần có những trang thiết bị về điều kiện kiểm chứng các dấu hiệu để có thể đáp ứng kịp thời các nhu cầu xã hội hiện nay cũng như các hiệp định, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Hoàn thiện quy định về điều kiện nhãn hiệu được cấp phép bảo hộ

Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu. Nhưng thực tế thì vẫn có nhiều vụ tranh chấp xảy ra xung quanh việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu cho thấy trên thực tiễn, những quy định về điều kiện nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ vẫn còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn, như đối với vụ tranh chấp giữa Công ty Bia Sài Gòn (SBC) và Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam (BSGVN) thì Cục Sở hữu trí tuệ đã chấp nhận đơn hợp lệ của Công ty Công ty BSGVN. Ở vụ tranh chấp giữa Công ty TNHH DP và Công ty AVN thì cả hai công ty đều nhận được cấp phép bảo hộ nhãn hiệu.

Thông qua thực trạng về vụ việc tranh chấp giữa Công ty SBC và Công ty BSGVN có thể thấy, việc quy định về điều kiện nhãn hiệu của một doanh nghiệp được bảo hộ khi nhãn hiệu đó là dấu hiệu nhìn thấy được và có khả năng phân biệt là chưa đủ. Thay vào đó việc không giới hạn về cách hiểu của nhãn hiệu có thể giúp cho việc nhận biết, phân biệt nhãn hiệu dễ dàng hơn điều này sẽ giúp hạn chế được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hay dễ dàng phân biệt đâu là hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu của doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ theo quy định pháp luật.2

Nếu xét về cấu trúc của hai nhãn hiệu rõ ràng có dấu hiệu tương đồng nhưng vẫn có sự khác biệt là dấu hiệu “VIETNAM”. Ngoài ra, bên cạnh đó sản phẩm của Công ty BSGVN còn có hình con rồng trên sản phẩm cũng được thể hiện khác đi, hay sự cách điệu màu sắc, sự kết hợp các yếu tố cũng có sự thay đổi nhầm làm khác đi so với sản phẩm của Công ty SBC. Như vậy, nếu xét về từng dấu hiệu tạo nên nhãn hiệu của sản phẩm thì rõ ràng các dấu hiệu này có khả năng phân biệt. Hay về phát âm-phiên âm cũng có sự khác biệt. Nhưng khi kết hợp về tổng thể thì sẽ có khả năng gây nhầm lẫn. Điều này có thể thấy rằng, nếu áp dụng điều kiện bảo hộ nhãn hiệu đối với các dấu hiệu của nhãn hiệu thì nhãn hiệu vẫn có khả năng phân biệt nhất định điều này chứng minh thông qua việc Cục Sở hữu trí tuệ đã có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ về việc xin cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu của Công ty BSGVN.

Đối với thực trạng về vụ tranh chấp giữa hai nhãn hiệu “Asano” và “Asanzo” cũng cho thấy, trên thực tế thì tên và hình ảnh đăng ký nhãn hiệu của có thể phân biệt được. Cụ thể như hình ảnh đính kèm sau:

Nếu xét về điều kiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu rõ ràng cả hai nhãn hiệu này đều thỏa mãn điều kiện từ sự kết các ký tự rồi kết màu sắc cũng hoàn toàn khác nhau hay sử dụng kiểu chữ cũng đã có sự khác biệt nhất định, từ đó mà Cục Sở hữu trí tuệ đã có quyết định cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu “Asanzo” là nhãn hiệu đã được đăng ký sau. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp thì theo kết quả giám định của Bộ Khoa học công nghệ đã có nhận định về hai nhãn hiệu này có khả năng gây nhầm lẫn cụ thể qua bảng phân tích chi tiết hai nhãn hiệu trên như sau3:

Thông qua phân tích trên cho thấy, khung pháp lý quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu hiện nay còn khá cứng nhắc bởi những điều này đã xảy ra những tranh chấp không đáng có mà các chủ sở hữu để bảo vệ mình phải tiến hành thủ tục tố tụng đưa tranh chấp ra Tòa án xử lý thì mất khá nhiều thời gian, tiền bạc,… của chủ sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ.

Thực tế, việc doanh nghiệp thay đổi một vài ký tự, hình dáng để đăng ký nhãn hiệu là nhiều vô số và điều này được chứng minh thông qua việc số vụ án mà tòa xử lý. Hay các Cục sở hữu trí tuệ cũng sẽ gặp khó khăn trong việc xác định điều kiện cấp văn bằng bảo hộ, bởi rõ ràng thỏa mãn điều kiện về đăng ký nhãn hiệu theo quy định pháp luật nhưng khi tranh chấp xảy ra thì cũng chứng minh được nhãn hiệu đăng ký có khả năng gây nhầm lẫn. Do vậy, Luật Sở hữu trí tuệ cần có những sửa đổi điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo hướng có cách hiểu mở rộng về việc liên kết các yếu tố về diện mạo bên ngoài của sản phẩm được gắn nhãn hiệu mà người tiêu dùng có thể liên tưởng đến khi nhắc đến nhãn hiệu của doanh nghiệp, hoặc bảo hộ nhãn hiệu ngay cả việc đọc tên một nhãn hiệu của doanh nghiệp bởi có thể được kết hợp bởi các ký tự khác nhau, nhưng vẫn có thể phát âm tương đồng cũng có thể gây nhầm lẫn để hạn chế sự nhầm lẫn về nhãn hiệu đối với người tiêu dùng khi tiếp cận nhãn hiệu của doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình xác định nhãn hiệu đủ điều kiện bảo hộ và cấp phép của cơ quan có thẩm quyền cần có những biện pháp xác định để tránh trường hợp nhãn hiệu đã được cấp phép bảo hộ lại bị tranh chấp.

Điều kiện bảo hộ của một nhãn hiệu ngoài những quy định là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa thì cũng có thể xem xét mở rộng thêm về quy định phiên âm-phát âm nhãn hiệu.

Cùng nhìn lại hai nhãn hiệu “Asano” và “Asanzo”, tại tiêu chí phiên âm phát âm được nhận định tương đồng là “A san o” và “A san zo”, nhưng rõ ràng nhãn hiệu “Asano” cũng có thể được phiên âm-phát âm khác đi như “A sa no”. Điều này cũng có phần ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định hai nhãn hiệu này có gây nhầm lẫn thông qua phiên âm-phát âm hay không? Bởi nếu đứng dưới góc độ người tiêu dùng thì việc phiên âm-phát âm khá quan trọng, và thông thường nhãn hiệu sẽ được người tiêu dùng truyền tai nhau để nhận biết.

Trong vụ việc tranh chấp nhãn hiệu “BIA SAIGON” và “BIA SAIGON VIETNAM” cũng đã nói lên được việc các dấu hiệu của nhãn hiệu có khả năng phân biệt, nhưng về tổng thể khi kết hợp vẫn có thể gây nhầm lẫn vàđiều này cũng cần được lưu ý. Bởi việc kết hợp các dấu hiệu để tạo nên một tổng thể có ý nghĩa quan trọng các dấu hiệu có khả năng phân biệt nhưng tổng thể khi kết hợp các dấu hiệu lại có khả năng gây nhầm lẫn hoặc ngược lại, các dấu hiệu có thể tương tự nhưng khi được kết hợp lại với nhau cũng có thể tạo nên một tổng thể. Thêm vào đó cũng có thể xem xét tổng thể bằng việc nhãn hiệu được gắn lên sản phẩm thì tổng thể sẽ có khả năng phân biệt hay không chứ không ngừng lại việc chỉ xét đến nhãn hiệu mà không xét tổng thể sản phẩm được gắn nhãn riêng biệt.

Hoàn thiện quy định về việc xác định phạm vi bảo hộ nhãn hiệu

Nhãn hiệu được bảo hộ khi được cấp văn bằng bảo hộ, nhưng chủ thể của nhãn hiệu cũng cần được biết phạm vi bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp để có những hành động đúng với quy phạm pháp luật về nhãn hiệu trong thời gian được bảo hộ nhãn hiệu. Cũng thông qua hai vụ tranh chấp trên có thể thấy, phạm vi bảo hộ nhãn hiệu có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định nhãn hiệu của doanh nghiệp có nhận được bảo hộ theo pháp luật về nhãn hiệu hay không. Tuy nhiên, pháp luật chưa có những quy định cụ thể về phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đã được đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ. Mặc dù thực tế thì tại website chính thức của Cục Sở hữu trí tuệ đã có những quy định cũng như hướng dẫn về phạm vi được bảo hộ, nhưng như vậy chưa đủ.

Phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu có thể quy định cụ thể như bảo hộ cả nội dung, ý nghĩa của nhãn hiệu hay thậm chí là có thể bảo hộ cả cách phát âm của nhãn hiệu hay nhãn hiệu có sự kết nối trực tiếp với kiểu dáng báo bì, kiểu dáng sản phẩm giúp cho người tiêu dùng nhận biết được nguồn gốc sản phẩm cũng có thể cân nhắc xem xét đưa vào phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu. Ngoài ra việc xác định phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu cũng cần xác định song song với lĩnh vực kinh doanh, ngành hàng, sản phẩm của doanh nghiệp.

Pháp luật cần có khung pháp lý rõ ràng về phạm vi bảo hộ nhãn hiệu đã đăng ký và bảo đảm, tất cả hoạt động nằm trong phạm vi bảo hộ nhãn hiệu đều sẽ được pháp luật bảo hộ một cách tối ưu. Từ đó, pháp luật sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về phạm vi được bảo hộ để chủ sở hữu nhãn hiệu thựchiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trên thực tế, các tổ chức, cá nhân có thể sử dụng nhiều phiên bản màu sắc khác nhau cho cùng một mẫu nhãn hiệu hoặc nhiều kiểu chữ được thiết kế khác nhau cho một nhãn hiệu chữ. Do vậy, điều này sẽ góp phần giảm thiểu được khả năng tranh chấp nhãn hiệu giữa các doanh nghiệp bởi đã được quy định cụ thể, rõ ràng và đồng nhất.

Việc xác định phạm vi bảo hộ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình bảo hộ cho một nhãn hiệu đã được cấp văn bằng bảo hộ hợp pháp cũng như có yếu tố công bằng cho những cá nhân, pháp nhân có ý tưởng và muốn sở hữu nhãn hiệu của riêng mình thông qua việc đăng ký bảo hộ cho một nhãn hiệu.

Câu hỏi cần được giải đáp là một nhãn hiệu đăng ký bảo hộ là một nhãn hiệu trắng đen thì có bao nhiêu biến thể có thể được bảo hộ, việc xuất hiện hai nhãn hiệu trắng đen cùng được bảo hộ, nhưng lại cùng lúc phát sinh biến thể màu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nhau về nhãn hiệu thì sẽ có kết quả như thế nào? Mối liên kết được của nhãn hiệu trắng đen và nhãn hiệu màu là gì?

Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ cũng như các văn bản dưới luật chưa có những quy định cụ thể trong việc xác định phạm vi bảo hộ cũng như quyền sử dụng liên quan đến nhãn hiệu đen/trắng và nhãn hiệu màu. Điều đó gây khó khăn cho các chủ thể quyền của nhãn hiệu cũng như những bên liên quan trong việc áp dụng luật. Do vậy, pháp luật cần có những quy định về phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu. Có thể có những quy định chi tiết về nhãn hiệu trắng đen sẽ được bảo hộ với bao nhiêu biến thể màu, hay quy định về mối tương quan giữa nhãn hiệu màu và nhãn hiệu trắng đen. Bên cạnh đó cũng quy định về biến thể của kiểu chữ đối với nhãn hiệu. Như đã đề cập ở trên, các dấu hiệu đơn lẻ của nhãn hiệu có thể tương đồng nhưng khi được kết hợp sắp xếp các dấu hiệu có thể thay đổi tổng quan một nhãn hiệu, điều này sẽ có ảnh hưởng lớn đối với việc bảo hộ cho nhãn hiệu.

Hoàn thiện quy định về việc công nhận, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam

Nhãn hiệu nổi tiếng được pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ghi nhận là một loại nhãn hiệu được pháp luật quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu bảo hộ. Tiêu chí đánh giá là nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, trong đó được liệt kê cụ thể với 8 khoản tương ứng với 8 tiêu chí để được ghi nhận là nhãn hiệu nổi tiến cần thỏa mãn một số hoặc tất cả các tiêu chí tại điều luật này quy định. Đây là một điểm mới mà pháp luật hiện hành đã thay đổi tiến bộ khắc phụ được những bất cập trước đó. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ các tiêu chí đánh giá về một nhãn hiệu nổi tiếng có thể thấy, nhãn hiệu nổi tiếng được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng khá nhiều nhưng lại không có bất kỳ thông số cụ thể nào để có thể bảo đảm đạt được thông số đó để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng, điều này ảnh hưởng khá nhiều trong công tác công nhận một nhãn hiệu đạt tiêu chí nhãn hiệu nổi tiếng.

Tại Điều 6bis Công ước Paris có quy định: “để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không, phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng có liên quan, kể cả danh tiếng tại nước thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó4. Hay tại Hiệp định CPTPP cũng có ghi nhận về nhãn hiệu nổi tiếng: “Không bên nào được áp đặt điều kiện để một nhãn hiệu được xác định là nổi tiếng là nó phải được đăng ký trong nước đó hay trong một nước nào khác, phải có trong một danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc được công nhận trước là một nhãn hiệu nổi tiếng5.

Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ xem xét nhãn hiệu nổi tiếng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và chưa có quy định về những trường hợp nhãn hiệu đã là nhãn hiệu nổi tiếng ở nước ngoài nhưng mới tiếp cận thị trường Việt Nam. Do vậy, cần có những quy định về công nhận, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở nước ngoài khi tiếp cận vào thị trường Việt Nam để chủ sở hữu nhãn hiệu có thể được bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng khi tiến hành mở rộng thị trường đầu tư tại Việt Nam.

Ngoài ra thủ tục công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng cũng cần có những quy định cụ thể rõ ràng. Mặc dù tại Hiệp định CPTPP có ghi nhận không được áp đặt điều kiện xác định nhãn hiệu nổi tiếng thông qua việc đăng ký hay phải có một danh sách nhưng sau khi một nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng bởi cơ quan có thẩm quyền là Tòa án hoặc Cục Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu được ghi nhận vào danh bạ quốc gia mà lại không có bất kỳ quy định nào về việc ghi nhận. Bởi việc quy định sẽ có thể kiểm soát tốt hơn, đồng thời khi có những quy định chi tiết cũng sẽ giải quyết được việc một nhãn hiệu đã được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng nhưng sau một thời gian nhãn hiệu không còn bảo đảm đủ tiêu chí là nhãn hiệu nổi tiếng thì cũng cần có những cơ chế rõ ràng để bảo đảm được quyền, lợi ích chính đáng của các cá nhân, pháp nhân tham gia kinh doanh thương mại quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu6. Từ đây, cho thấy cần xem xét quy định nhãn hiệu nổi tiếng ở nước ngoài cũng có thể được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam và được bảo hộ theo quy định pháp luật Việt Nam.

Hoàn thiện quy định về thủ tục cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu

Hoàn thiện quy định về thủ tục cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu là điều cần thiết bởi nhu cầu của chủ sở hữu nhãn hiệu ngày càng tăng cũng như sự phát triển của xã hội không ngừng diễn ra, điều này thúc đẩy việc cần có một quy trình, thủ tục hoàn thiện phù hợp hơn để bảo đảm nhu cầu của xã hội cũng như tính chất pháp lý về nhãn hiệu.

Vụ thu hồi nhãn hiệu của Công ty HDG là một ví dụ minh chứng cho việc này bởi khi các quy phạm pháp luật về thủ tục cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu vẫn còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt và quá trình thẩm định còn chậm, dẫn đến những tranh chấp.

Ngoài ra, việc thẩm định áp dụng pháp luật cũng thiếu linh hoạt, còn cứng nhắc. Để minh chứng cho việc này chính là ba vụ án đã phân tích ở trên cho thấy, việc áp dụng điều kiện bảo hộ nhãn hiệu đã được áp dụng cho quá trình thẩm định đơn, tuy nhiên việc áp dụng này khá cứng nhắc, do đó dẫn đến việc đưa ra những quyết định bất nhất.

Đối với vụ tranh chấp nhãn hiệu “BIA SAIGON” và “BIA SAIGON VIETNAM” thì nhãn hiệu “BIA SAIGON” của Công ty SBC đã đăng ký và được cấp bằng bảo hộ trước đó. Sau đó thì nhãn hiệu “BIA SAIGON VIETNAM” của Công ty BSGVN cũng được tiến hành đăng ký và có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ từ Cục Sở hữu trí tuệ. Nhưng đến khi vụ việc được đưa ra khởi tố vụ án thì sau đó Cục Sở hữu trí tuệ từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu của Công ty BSGVN.

Hay đến với vụ tranh chấp nhãn hiệu “ASANO” của Công ty DP và “ASANZO” của Công ty AVN. Tại vụ tranh chấp này thì nhãn hiệu “ASANO” đã được cấp văn bằng bảo hộ vào năm 2008 nhưng đến năm 2014 thì nhãn hiệu “ASANZO” cũng nhận được chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, Công ty DP đã khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu của Công ty AVN và được Tòa án chấp thuận một phần yêu cầu của Công ty DP do kết quả giám định của Viện Khoa học và công nghệ là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu “ASANO”.

Tương tự vụ việc thu hồi nhãn hiệu của Công ty HDG, Cục Sở hữu trí tuệ cũng đã có những quyết định bất nhất về việc cấp và thu hồi nhãn hiệu đã cấp. Từ những ví dụ trên có thể thấy, việc thẩm đơn đăng ký nhãn hiệu và áp dụng pháp luật về nhãn hiệu còn cứng nhắc, chưa linh hoạt đã dẫn đến việc Cục Sở hữu trí tuệ có những quyết định bất nhất và có những tranh chấp không đáng có đã xảy ra. Do vậy, việc có những quy định cụ thể chi tiết hơn để hướng dẫn cho thủ tục cấp văn bằng bảo hộ là cần thiết.

Bên cạnh việc thời gian thẩm định đơn lâu, công tác thẩm định áp dụng pháp luật còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt thì nguồn thông tin cũng rất quan trọng. Nguồn thông tin này có thể giúp đánh giá sự tương đồng, khả năng gây nhầm lẫn của nhãn hiệu, tuy nhiên cơ sở dữ liệu của Cục Sở hữu trí tuệ hoạt động cung cấp thông tin còn hạn chế, trang thông tin thư viện chưa hiện đại, thường xuyên gặp tình trạng không thể truy cập, ảnh hưởng tới công tác tra cứu, xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Những giải pháp trong ứng dụng công nghệ thông tin cũng rất đặc biệt; là công cụ hỗ trợ cho việc tìm kiếm nguồn thông tin phù hợp để tiết kiệm được thời gian trong quá trình thực hiện xây dựng và đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu. Cục Sở hữu trí tuệ cần đầu tư phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, hoàn thiện các cơ sở dữ liệu và công cụ tra cứu, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng7.

Việc ra cứu thông tin nguồn để có thể tạo nên một nhãn hiệu cho một doanh nghiệp là đặc biệt quan trọng, nhưng hiện nay việc tra cứu chỉ có thể ngừng lại thông qua tra cứu các thông tin về các quyền sở hữu công nghiệp mà Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ; những trường hợp đang trong quá trình thẩm định thì chưa thể tra cứu được. Nhưng đây cũng có thể được xem là một nguồn thông tin, nếu có thể tra cứu được cả những trường hợp đang được thẩm định đơn, điều này có thể giúp cho cá nhân, pháp nhân có mong muốn phát triển nhãn hiệu có thể thực hiện dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn thông tin cũng như quá trình thẩm định có thể diễn ra công khai, minh bạch hơn nếu có những quy định hướng dẫn chi tiết. Từ đó, có thể xem xét cho việc đưa ra các quy định mở rộng cho phép tra cứu các mẫu nhãn hiệu đang được xem xét, để các cá nhân pháp nhân có thể chủ động tra cứu và khắc phục trong trường hợp các dấu hiệu tương tự hoặc trùng với các mẫu nhãn hiệu đang trong quá trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu.

Chú thích:
1. Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương. https://thuvienphapluat.vn, truy cập ngày 10/11/2023.
2. Bảo hộ nhãn hiệu mùi hương: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam. https://vjst.vn, truy cập ngày 10/11/2023.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam. https://lsvn.vn, truy cập ngày 21/8/2023.
4. Vụ làm giả nhãn hiệu bia Sài Gòn (SABECO): Tuyên phạt công ty và giám đốc 3,7 tỷ đồng. https://sggp.org.vn, truy cập ngày 09/11/2023.
5. Asano: Vì sao đăng ký bảo hộ mà vẫn trùng nhãn hiệu? https://phapluatbanquyen.phaply.vn, truy cập ngày 09/11/2023.
6. Từ vụ án tranh chấp nhãn hiệu “asano, hình” và nhãn hiệu “Asanzo, hình”: thế nào là sử dụng nhãn hiệu và phạm vi bảo hộ nhãn hiệu”. http://vietthink.nd, truy cập ngày 09/11/2023.
7. Những bất cập trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện nay, https://lplaw.vn, truy cập ngày 13/11/2023.