Tư duy và hành động đột phá cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh trong bối cảnh mới

TS. Vũ Ngọc Thanh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư duy và hành động đột phá là cần thiết, là điều kiện tiên quyết tạo ra sức phát triển mới cho hệ thống kinh tế bị suy giảm động lực. Bài viết luận giải cơ sở khoa học cùng phương thức tuy duy và hành động đột phá cho Quảng Ninh trong việc tìm kiếm sự tăng trưởng mới trước bối cảnh mới.

Từ khoá: Tư duy và hành động; đột phá; phát triển kinh tế; tỉnh Quảng Ninh; bối cảnh mới.

Quá trình phát triển kinh tế bằng một mô hình cụ thể dựa trên cơ sở hệ thống luận thuyết nền tảng, rốt cuộc, rồi sẽ đi đến giai đoạn suy giảm tăng trưởng sau một tiến trình vận động thành công nhất định. Thực tế này diễn ra đã thành hiện tượng mang tính quy luật, có cơ sở khoa học – lý thuyết kinh tế giới hạn của hiệu quả quy mô của hệ thống kinh tế và tính chu kỳ kinh doanh. Để có thể đạt được sự tăng trưởng mới thì không thể tiếp tục duy trì nguyên trạng hệ thống kinh tế cũ mà phải thay đổi, thậm chí thay mới, do đó phải có sự đột phá trong hành động được khởi nguồn từ đột phá trong tư duy. 

* Nhận thức về tư duy đột phá

Cho đến nay, khái niệm tư duy đột phá không còn xa lạ trong đời sống xã hội hiện thực, theo Wikipedia, lý thuyết về tư duy đột phá được giáo sư Shozo Hibino ở Đại học Chukyo (Nhật Bản) và giáo sư Gerald Nadler ở đại học Nam California (Hoa Kỳ) cùng biên soạn trong cuốn sách về tư duy đột phá đã đúc kết thực tiễn sau hơn 30 năm nghiên cứu về cách thức giải quyết vấn đề. Trong đó, tư duy đột phá được coi là phương thức hoạch định tương lai và giải quyết vấn đề bằng cách thức định hướng lại tư duy dựa theo mục tiêu và mục đích, sự duy nhất và tính hệ thống của vấn đề.

Tư duy đột phá là một kiểu giải quyết vấn đề có cấu trúc, nằm giữa sự tưởng tượng tự do và động não, cũng như các phương pháp tiếp cận theo quy trình nhằm tìm kiếm cho được các giải pháp mới, mang tính đột phá, trên cơ sở mục tiêu được thiết lập và được thử nghiệm một cách sáng tạo. Trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cố gắng áp dụng tư duy đột phá với mong muốn đạt được lợi thế trong cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường và sáng tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mới để có được lợi nhuận mới vượt trội. Động lực chính yếu nằm ở việc phải tìm ra giải pháp mới, cách mạng, khắc phục được những hạn chế hiện tại đang làm suy giảm động lực phát triển.

Công trình nghiên cứu của học giả Ilya Prigogine trong thế kỷ 20 đã mang đến thêm tri thức mới, đó là sự hiểu biết về tư duy đột phá, được dựa trên các trạng thái thay đổi và phân rã tự nhiên trong các hệ thống mở với năng lượng tự do. Cách tiếp cận tư duy đột phá cố gắng khắc phục tất cả những thất bại hiện hữu bằng cách xác định các giới hạn, sau đó khuyến khích tư duy đổi mới, bắt đầu từ và dựa trên những giới hạn đã được xác định. Đầu tiên, nó xác định các vấn đề nghiêm trọng đối với doanh nghiệp đã biết, nhưng hiếm khi được thảo luận một cách cởi mở bởi các lý do khác nhau, như: văn hóa công ty hoặc cảm giác vô vọng về việc thay đổi hiện trạng. Tiếp theo, tổ chức thảo luận nhóm bằng cách tập trung hoàn toàn vào những đặc điểm đã được nhận diện để thu thập thêm những hiểu biết mới, như: một số khách hàng có thể sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp theo những cách mà công ty không dự liệu được trong hướng dẫn sử dụng, có nghĩa là công ty không ngờ tới nhưng lại đem tới lợi ích sử dụng đích thực và sáng tạo1

Xác định các tham số của tư duy đột phá là bước cụ thể đầu tiên để có thể đạt được sự tiến bộ nào đó. Điều này liên quan đến giả định rằng vấn đề cần giải quyết là thứ duy nhất cần phải tìm kiếm nguyên nhân căn bản và giải pháp hữu hiệu. Tuy duy vượt ra khỏi giới hạn của hệ thống hiện tại sẽ xuất hiện khi vấn đề cần phải được giải quyết, bằng cách dự báo điều gì sẽ xảy ra và hoạt động của nó sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai. Toàn bộ quá trình đó dựa trên cơ sở bảo đảm thông tin chính xác sẵn có trong tay và mọi người đều tích cực, chủ động tham gia tiến trình tìm kiếm giải pháp khi là một thành viên của nhóm xử lý vấn đề tồn tại. Ngoài ra, điều quan trọng là phải đặt ra thời hạn thực hiện, nếu không tư duy đột phá sẽ có xu hướng quay trở lại quá trình động não mà không có mục tiêu hoặc không có mục tiêu cụ thể nào trước mắt2.

Đến nay, tư duy đột phá được thừa nhận là có khả năng mang lại một số lợi ích thiết thực, tuỳ thuộc vào vấn đề cụ thể, hoàn cảnh cụ thể, lĩnh vực cụ thể mà các dạng lợi ích được biết đến, theo Wikipedia, bao gồm: (1) Nhận diện được đúng vấn đề và xác định được cách thức thực hiện. (2) Tập trung vào các giải pháp trong tương lai, không phải hiện tại. (3) Gỡ bỏ được những rào cản để tiếp cận những giải pháp đơn giản. (4) Yêu cầu thu thập dữ liệu ít nhất, vì thế khắc phục được căn bệnh phân tích và mổ xẻ. (5) Đưa ra được những giải pháp mang lại lợi ích lớn hơn về phương diện chất lượng, lợi ích kinh tế và thời gian. (6) Yêu cầu thời gian ít hơn và chi phí thấp hơn cho việc tạo ra những lợi ích kinh tế kê trên. (7) Thúc đẩy năng lực tư duy sáng tạo và những thay đổi căn bản. (8) Cung cấp các giải pháp mang tính dài hạn. (9) Tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã đề ra. (10) Xây dựng được những nhóm công tác hiệu quả, lâu dài và các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp, bền chặt. (11) Sử dụng tầm nhìn toàn diện, chính xác trong việc xử lý các vấn đề phát sinh và phòng ngừa rủi ro, bất lợi và tổn thất xuất hiện trong tương lai.

Về mặt nguyên tắc cơ bản, trước đây, tư duy đột phá được biết đến với 7 nguyên tắc cụ thể sau: 

1. Tính duy nhất. Mỗi vấn đề phải là duy nhất, yêu cầu giải pháp duy nhất, tuyệt đối không bắt chước.

2. Mục đích cuối cùng. Tập trung vào mục đích và triển khai thực hiện mục đích với câu hỏi “Mục đích của mục đích, của mục đích… là gì”) để tìm ra được mục đích cuối cùng, mở rộng các phương, chiều (không gian, thời gian) để giải quyết vấn đề một cách toàn diện.

3. Giải pháp sau giải pháp tiếp theo. Xác định ra giải pháp trong tương lai để định hướng cho giải pháp hiện tại, đặt nó trong tổng thể hệ thống giải pháp lớn hơn, toàn diện và dài hạn.

4. Tính hệ hệ thống. Xét giải pháp trong logíc tổng thể, nhất quán.

5. Thu thập thông tin tối thiểu. Có nhiều thông tin sẽ tạo nên kiến thức chuyên sâu, nhưng khi có quá nhiều thông tin, thì lại hạn chế khả năng giải quyết vấn đề.

6. Lôi cuốn tham gia của số đông. Tạo ra sự hào hứng, phấn khởi, khuyến thích, lôi cuốn mọi người cùng tham gia vào kế hoạch.

7. Thay đổi và cải cách liên tục. Trong tiến trình hoàn thiện giải pháp mới, có thể đề ra giải pháp tiếp theo sau để bảo đảm được tính cập nhật, làm mới liên tục theo tiến trình vận động của hệ thống.

Đến năm 2013, các tác giả đã đề xuất cấu trúc lại phương thức tư duy đột phá theo hướng chặt chẽ và khoa học hơn so với việc tuân thủ 7 nguyên tắc trên nhằm tiếp nhận, thực hiện dễ dàng hơn. Cụ thể:

+ 3 nguyên lý cơ bản: tính duy nhất; tính hệ thống; thông tin giới hạn;

+ 4 giai đoạn tạo giải pháp đột phá: đào tạo con người; triển khai mục đích; thiết kế giải pháp tương lai (dài hạn); thiết kế giải pháp hiện tại (ngắn hạn);

+ 3 quy trình trong mỗi giai đoạn: liệt kê; tổ chức; quyết định.

 * Nhận thức về hành động đột phá

Khi đã xác định được rõ mục tiêu và mục đích cho hệ thống, nhất là hệ thống kinh tế như ở phạm vi của bài viết này, với giải pháp được xác định bằng phương thức tư duy đột phá để hiện thực hoá mục tiêu nhắm đến mục đích cuối cùng, việc tiếp theo là hành động để biến ý tưởng giải pháp thành hiện thực. 

Thông thường, trong thực tiễn, dựa trên cách tiếp cận theo quy trình và tiến trình, quá trình tổ chức triển khai thực hiện giải pháp được thể hiện bằng một kế hoạch khoa học với các hoạt động làm trước – làm sau được bố trí logíc, chặt chẽ, nhất quán, do đó việc triển khai kế hoạch phải tuân thủ đúng theo bản kế hoạch đó để bảo đảm khả năng thành công và đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động theo kế hoạch triển khai, nhất là những kế hoạch hành động có thời gian thực hiện dài, từ năm này qua năm khác thì luôn phải chịu rủi ro về tiến độ hoàn thành (kéo dài), nguồn lực bị tăng lên, do sự tác động của các yếu tố thuộc bối cảnh, khách quan, không thể dự báo được hết, mặc dù đã có phương án dự phòng rủi ro trong kế hoạch triển khai.

Thực tiễn cho thấy, việc tuân thủ đúng, đầy đủ các bước quy trình thực hiện các hoạt động của bản kế hoạch hành động là một trong những nguyên tắc, yêu cầu trong điều kiện bình thường, song với những bản kế hoạch hành động có thời gian tổ chức thực hiện các hoạt động kéo dài qua nhiều năm như đã nói ở trên, thì việc tuân thủ đúng, đầy đủ các bước quy trình mới chỉ là yêu cầu đầu tiên, cần thiết mà chưa đủ, vì như thường thấy, khi thực hiện các bản kế hoạch hành động như vậy, yêu cầu đặt ra là hoàn thành trước tiến độ kế hoạch nhằm giảm thiểu rủi ro từ bối cảnh, cộng với việc cần phải tối thiểu hoá chi phí thực hiện, nếu có thể thì càng thấp hơn chi phí dự toán càng tốt để phòng ngừa phát sinh thêm, tăng thêm chi phí ngoài kế hoạch do các yếu tố bất lợi, do ngoại cảnh cùng các rủi ro khác, do đó sáng tạo, đột phá trong hành động tổ chức thực hiện các hoạt động kế hoạch là rất cần thiết và luôn được khuyến khích, có nghĩa là rất cần có hành động mang tính đột phá, sáng tạo trong tổ chức thực hiện thành công bản kế hoạch hành động.

Đối với mỗi hệ thống kinh tế, hoạt động luôn luôn gắn với việc sử dụng, tiêu tốn các nguồn lực như vốn, đất đai, tài nguyên, sức người, khoa học – công nghệ và tạo ra kết quả là sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội, đồng thời tác động tiêu cực (gây hại) cho môi trường sinh thái do phát thải trong quá trình hoạt động nên trong bối cảnh mới hiện nay, khi mà bên cạnh sức lao động, thì tiến bộ khoa học – công nghệ, thành tựu từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với những khái niệm chưa từng tồn tại trong lịch sử phát triển của nhân loại, như: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ; dữ liệu lớn (Bigdata), trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (iCloud computing), internet kết nối vạn vật (IoT), in 3D; ropots dạng thức người, đã trở thành yếu tố chính, trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế – quá trình sản xuất, kinh doanh thì không chỉ có tư duy đột phá, mà cả hành động đột phá, cũng trở nên rất cần thiết, quan trọng và không thể thiếu trong các quá trình áp dụng những tiến bộ (CMCN 4.0) ấy vào các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện thực nói chung và trong phát triển kinh tế nói riêng.

Với nhận thức như vậy về hành động đột phá, trong thực tiễn, hành động đột phá thường xuất hiện, ở phương diện kinh tế, trong và gắn với việc khai thác, sử dụng các nguồn lực kinh tế – yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh trong thiết kế sản phẩm hàng hoá dịch vụ là đầu ra của quá trình sản xuất, kinh doanh; còn đối với việc tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động thì hành động đột phá thường xuất hiện trong thay đổi, điều chỉnh quy trình, ví như cắt, giảm, gộp, chuyển tiếp,… các hoạt động hay công việc một cách sáng tạo nhằm giảm thiểu chi phí thực hiện và/hay rút ngắn tiến độ hoàn thành, nâng cao chất lượng kết quả đầu ra.  

Hiện nay, Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành công nổi bật trong quá trình thực hiện 3 đột phá chiến lược đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh, gọi tắt là Nghị quyết 15, trong đó bao gồm: (1) Đầu tư hoàn thiện hạ tầng cơ sở. (2) Đẩy mạnh cải cách hành chính. (3) Tập trung phát triển nguồn nhân lực. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, lâu dài trong tiến trình thực hiện phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh3, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh ấn tượng và sự phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Những thành công nổi bật được ghi nhận là hạ tầng cơ sở trong vai trò động lực dẫn dắt; sự phát triển lực lượng lao động chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong điều kiện bị thiếu hụt nguồn nhân lực tại chỗ; cải cách mạnh mẽ hoạt động hành chính. Tiến trình thực hiện 3 đột phá chiến lược này còn đang tiếp tục trong tiến trình hiện thực hoá các mục tiêu dài hạn đã được xác định rõ trong Nghị quyết 15 của tỉnh, cụ thể là: 

Đến năm 2025, tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh có dịch vụ và công nghiệp hiện đại, một trong những trung tâm phát triển năng động và toàn diện của khu vực phía Bắc, duy trì tốc độ tăng trưởng hằng năm trên 10% và tổng sản phẩm GRDP bình quân đầu người tại thời điểm năm 2025 đạt trên 10.000 USD4.

Đến năm 2030, tỉnh Quảng Ninh trở thành một tỉnh kiểu mẫu ở Việt Nam về giàu đẹp, văn minh, hiện đại, là một trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển ở cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; có đô thị phát triển bền vững với đặc trưng Xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu; có GRDP bình quân đầu người đạt trên 15.000 USD5.

Để đạt được các mục tiêu trên, nếu chỉ chú trọng vào thực hiện thành công 3 đột phá chiến lược là không đủ và không thể bảo đảm mặc dù có đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng nhanh và phát triển kinh tế mạnh. Vấn đề thực tế là cần phải tạo ra được môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh trên địa bàn của tỉnh, tạo ra được những điều kiện tiền đề thuận lợi, mới, hấp dẫn cho tiếp tục tăng thu hút đầu tư vào tỉnh, mang đến cho nhà đầu tư động lực thực sự, lớn hơn nữa, trong việc quyết định đầu tư vào địa bàn tỉnh. Vì thế, tỉnh Quảng Ninh không thể không cần đến tư duy và hành động đột phá, khi tiếp tục theo định hướng phát triển kinh tế mạnh mẽ, bền vững và duy trì đà tăng trưởng kinh tế nhanh trên cơ sở các mục tiêu chiến lược, cụ thể, đã được đề ra và phấn đấu thực hiện thành công. 

Cái khó mà hiện tỉnh phải đối mặt trong chặng đường phát triển đến năm 2030 là làm sao nhận diện được đầy đủ các mâu thuẫn tồn tại trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội và giải quyết được một cách tốt nhất những mâu thuẫn ấy, có nghĩa phải tìm ra được những phương thức tối ưu cho việc xử lý hiệu quả và thực chất những mâu thuẫn ấy. Nói về những mâu thuẫn chủ yếu trong chặng đường tiếp tục phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ninh, nhận diện một cách khái quát cho thấy hiện đang tồn tại các mâu thuẫn chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu giải phóng các nguồn lực, nhất là nguồn lực có nguồn gốc từ và gắn liền với yếu tố tự nhiên như đất đai, khoáng sản, biển, đảo, rừng, hệ động thực vật, nhất là thuỷ hải sản, lâm sản, các kỳ quan,… khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh, lợi thế và không gian phát triển rộng lớn với thực trạng hạn chế về thể chế và chính sách cho việc giải phóng các nguồn lực và các yếu tố tự nhiên kể trên.

Thứ hai, mâu thuẫn về nhu cầu phát triển giữa hai ngành kinh tế quan trọng là công nghiệp khai thác than với vai trò và nhiệm vụ bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và góp phần phát triển công nghiệp với phát triển công nghiệp du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn thuộc tỉnh6.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị hiện tại vì còn chưa tương xứng,chưa phù hợp với sự đổi mới về kinh tế và tình hình phát triển kinh tế thực tiễn đang diễn ra.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu vừa phát triển kinh tế với vừa góp phần bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ khu vực biên giới phía Đông bắc của đất nước ta.

Thứ năm, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo tồn các di sản tự nhiên của thế giới và của Việt Nam vớinhu cầu tăng trưởng kinh tế cao, nhanh và bền vững.

Thứ sáu, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, đô thị hóa với yêu cầu phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn văn minh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Thứ bảy, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao, nhanh và bền vững với yêu cầu bảo đảm công bằng, bình đẳng trong thụ hưởng, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo trên địa bàn tỉnh.

Tư duy và hành động đột phá là cần thiết, không thể thiếu đối với tỉnh Quảng Ninh, vì vai trò to lớn trong việc xử lý, giải quyết tốt, hiệu quả 7 mẫu thuẫn kể trên cùng những mâu thuẫn mới còn phát sinh trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội ở chặng đường những năm tiếp theo. Về mặt lý luận, nhận thức, cơ sở cho tư duy và hành động đột phá, trước hết, phải nhận diện đầy đủ hiện trạng mọitiềm năng, thế mạnh, giá trị riêng biệt, nổi trội của tỉnh. 

Với tỉnh Quảng Ninh, không chỉ có những yếu tố mang tính khách quan nhờ tự nhiên, như: Kỳ quan thế giới Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long, vùng mỏ than, địa chất, địa hình, địa mạo, hệ sinh thái rừng và biển phong phú, đa dạng với nhiều tài nguyên sinh thái quý hiếm mà còn có cả những yếu tố nhân tạo, như: di sản Yên Tử gắn liền với Phật phái Trúc Lâm, hệ thống mạng lưới các di tích lịch sử – văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, Thương cảng Vân Đồn; cốt cách và sự đoàn kết của con người Quảng Ninh, nhất là truyền thống kỷ luật, kỷ cương của Vùng Mỏ trung dũng, anh hùng – cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây được nhận diện chính là những tiềm năng, thế mạnh, lợi thế riêng có của tỉnh Quảng Ninh.

Việc nhận diện đúng, trúng sẽ làm cơ sở cho tư duy và hành động đột phá trong việc tìm kiếm và tạo ra phương thức phù hợp, tối ưu bằng thể chế và chính sách phù hợp để chuyển và biến những tiềm năng, lợi thế, thế mạnh kể trên thành nguồn lực và động lực to lớn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển kinh tế bền vững.

Một điểm nữa cần nói đến, có liên quan đến cơ sở cho tư duy và hành động đột phá trong vấn đề tăng trưởng nhanh và phát triển kinh tế bền vững đối với tỉnh Quảng Ninh, là những bài học kinh nghiệm hữu ích, quý giá được đúc rút từ quá trình phát triển bằng thực hiện 3 đột phá chiến lược. Các bài học cụ thể đó bao gồm:

Một , luôn chủ động bám sát, nắm chắc, tiếp thu, cụ thể hóa và hiện thực hoá chủ trương của trung ương sao cho phù hợp với điều kiện thực tế, bối cảnh và tình hình cụ thể, lợi thế riêng của tỉnh Quảng Ninh, chủ động phối hợp chặt chẽ và tận dụng tối đa sự giúp đỡ của các cơ quan trung ương, các địa phương trong cả nước.

Hai , phát huy hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế, thế mạnh trong quá trình huy động sức mạnh tổng hợp với quan điểm, định hướng: nội lực là cốt yếu, ngoại lực là quan trọng; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, cân đối giữa các vùng của tỉnh, bình đẳng giữa các khu vực trong tỉnh, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân một cách toàn diện.

Ba là, không ngừng đổi mới tư duy về phát triển, xây dựng tầm nhìn chiến lược, chủ động, sáng tạo trong tư duy và hành động, bám sát thực tiễn, tôn trọng các quy luật khách quan và sự đồng thuận, ủng hộ của Nhân dân; năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạovà điều hành ở tất cả các cấp chính quyền, trong tất cả các lĩnh vực vì lợi ích chung, tuân thủ nguyên tắc đúng – trúng – kịp thời – hiệu quả.

Bốn là, coi trọng giữ vững đoàn kết, thống nhất, đề cao ý chí tự lực, tự cường và sức sáng tạo,phát huy dân chủ và mọi nguồn lực của Nhân dân; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với Nhân dân; củng cố và nâng cao niềm tin của Nhân dân vào Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội chính thống; tăng cường phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội tại mỗi địa phương trong toàn tỉnh; luôn xác định “dân là gốc”, “dân là chủ” và “dân làm chủ”; người dân vừa là trung tâm, vừa là chủ thể và vừa là nguồn lực, động lực và mục tiêu của sự phát triển; bảo đảm sự bền vững, hài hòa ngay trong mỗi giai đoạn phát triển.

Trên cơ sở nhận diện rõ đầy đủ hiện trạng về tiềm năng, lợi thế, thế mạnh cùng bốn bài học được đúc rút từ trong chính chặng đường phát triển kinh tế – xã hội vừa qua, trong bối cảnh phát triển mới có nhiều thay đổi so với một thập kỷ đã qua, thì phương thức thực hiện các mục tiêu chiến lược đã xác định về tăng trưởng và phát triển kinh tế ở chặng đường tiếp theo đến năm 2030 cần phải dựa vào tư duy và hành động đột phá ở những vấn đề sau đây: 

(1) Trong tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể và cải cách hành chính phải nhanh chóng thực hiện số hoá, chuyển nhanh sang nền hành chính công vụ số, hoạt động hành chính phải chủ yếu trên nền tảng số, bằng phương thức số nhằm mục đích tối thiểu hoá chi phí tuân thủ của người dân và doanh nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng, độ tin cậy, sự an toàn của dịch vụ hành chính công. Để đạt được điều này, không thể chỉ dựa vào đầu tư công mà phải coi trọng các nguồn vốn đầu tư khác;chú trọng phương thức đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích và thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho nhu cầu sử dụng, kết nối của họ và nhu cầu thuê dịch vụ của chính quyền vào hệ thống của tỉnh bằng các chính sách cụ thể về tài chính và đào tạo, bồi dưỡng con người. Đồng thời, chủ động xây dựng cơ chế, chính sách tuyển dụng công chức, viên chức và chính sách tiền lương, thu nhập “đặc thù và chủ động địa phương” cho mục đích tinh giảm biên chế tối đa và trọng dụng nhân tài hiệu quả trong hoạt động hành chính của tỉnh.

(2) Thực hiện ngay phương thức phát triển theo nguyên tắc “Xanh, tuần hoàn và số” ở tất cả các lĩnh vực, ngành kinh tế trên toàn địa bàn của tỉnh ngay từ lúc này để nhắm tới mục tiêu sẽ trở thành một trong số năm địa phương của Việt Nam có mức phát thải CO2 ròng bằng 0 (Zero CO2) trước năm 2050, vào năm 2045. Tư duy và hành động đột phá theo hướng này sẽ mang đến cho tỉnh Quảng Ninh thêm rất nhiều cơ hội phát triển mới và thu hút được thêm rất nhiều các nhà đầu tư uy tín, danh tiếng trên thế giới.

(3) Tỉnh phải chủ động, tích cực tăng cường, mở rộng và đa dạng hoá các hình thức liên kết với các địa phương khác trong và ngoài Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộtheo chuỗi giá trị sản phẩm, trên cơ sở tiềm năng, lợi thế so sánh, thế mạnh riêng và vượt trội nhằmphát huy tối đa những yếu tố đó cho việc hiện thực hoá các mục tiêu phát triển kinh tế đã đặt ra.

(4) Xây dựng và thực hiện “cơ chế và chính sách tài chính đặc thù địa phương” cho phần ngân sách của tỉnh theo phương châm “bỏ ngắn lấy dài” hay “đổi trước lấy sau” nhằm tạo ra sự hấp dẫn khác biệt trong thu hút và giữ chân nhà đầu tư, đồng thời trong điều kiện hoạt động bình thường của đơn vị sản xuất, kinh doanh, sẽ mang lại nguồn thu ngân sách tăng dần qua mỗi năm cho tỉnh từ chính mỗi đơn vị sản xuất, kinh doanh được áp dụng cơ chế và chính sách tài chính đắc thù địa phương ấy. Tư duy và hành động đột phá này, trước hết, cần sự áp dụng thí điểm trong một khoảng thời gian đủ dài và ở một phạm vi ngành, lĩnh vực cụ thể có tính khả thi cao nhất vì chưa có tiền lệ ở Việt Nam.

(5) Tư duy và hành động đột phá trong phát triển lực lượng lao động chất lượng cao và thu hút nhân tài đối với tỉnh Quảng Ninh, sẽ không giống như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương hay Hải Phòng, Đà Nẵng,… Phải xuất phát từ và dựa vào suy nghĩ và hành động của chính nhân tài, khi họ chọn lựa tỉnh Quảng Ninh, đó phải là suy nghĩ và hành động dựa trên phương châm “thăm quan  lưu trú thường trú”, “học tập  làm việc  thường trú”, “khám chữa bệnh  an dưỡng thường xuyên, lâu dài”, “làm việc  nghỉ ngơi  thường trú”,… Tất cả những điều này đạt được bằng chính sự văn minh, hiện đại, chuyên nghiệp, uy tín, an toàn, khác biệt, đặc sắc, đa dạng và hợp lý trong cung cấp dịch vụ toàn diện; sự thân thiện, cởi mở, đồng cảm, sẻ chia, bao dung, vị tha, hoà nhã ở mỗi con người Quảng Ninh; sạch, đẹp, xanh, sinh thái về môi trường.    

Chú thích:
1,2. “What Is Breakthrough Thinking?”. Truy cập tại https://www.wise-geek.com/what-is-breakthrough-thinking.htm, ngày 19/9/2023.
3. “Dấu ấn 3 đột phá chiến lược”. Truy cập tại https://www.quangninh.gov.vn/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=122962 ngày 19/9/2023.
4,5,6. “Tỉnh Quảng Ninh – đột phá bắt đầu từ tư duy lãnh đạo, tầm nhìn và khát vọng phát triển”. Truy cập tại https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/823972/tinh-quang-ninh—dot-pha-bat-dau-tu-tu-duy-lanh-dao%2C-tam-nhin-va-khat-vong-phat-trien.aspx ngày 19/9/2023