TS. Nguyễn Đức Quyền
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết tập trung vào việc phân tích cơ sở thực tiễn, những vấn đề đặt ra để đề xuất bộ tiêu chí đánh giá đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã, bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài. Việc khái quát hướng nội dung chính sẽ liên quan đến các chỉ số tích hợp và đồng bộ hóa các tiêu chuẩn để có các tiêu chí thực hiện tạo ra một hệ thống đánh giá toàn diện và có tính ứng dụng cao cho việc đo lường hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã tại TP. Hồ Chí Minh.
Từ khoá: Tiêu chí, đánh giá, hiệu quả, Ủy ban nhân dân xã.
1. Đặt vấn đề
Chủ trương quan trọng của Đại hội XIII của Đảng là đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại và hiệu quả, đặt ra như một trong những mục tiêu trọng tâm. Trong khuôn khổ của Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030, vấn đề này tiếp tục được nhấn mạnh thông qua quan điểm và mục tiêu cải cách hành chính: “Tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả, có khả năng kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân. Điều này dựa trên quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng về việc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ hóa các nỗ lực đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Nhân dân, vì Nhân dân” (Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030).
Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương đang triển khai việc xây dựng Chính phủ điện tử và hướng tới mô hình Chính phủ số. Mục tiêu là bảo đảm rằng hoạt động quản lý quốc gia được thực hiện một cách năng suất, chất lượng, hiệu quả và hiệu suất. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này và đánh giá hiệu quả thực sự của quản lý nhà nước tại Ủy ban nhân dân xã tại TP. Hồ Chí Minh, cần có một bộ công cụ đo lường và đánh giá. Phương pháp tiếp cận này thông qua việc nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí vẫn được coi là phương hướng tích cực; tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển ngày nay, việc nghiên cứu và xây dựng một bộ tiêu chí có tính tổng thể và toàn diện, bao gồm cả khía cạnh định lượng và định tính, kết hợp với sự áp dụng công nghệ thông tin, quá trình chuyển đổi số, cũng như làm việc trong môi trường số trở nên cần thiết để có cơ sở đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
2. Cơ sở thực tiễn xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã
Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp nói chung đã sử dụng một số chỉ số để đánh giá cải cách hành chính ở cấp xã. Kể từ năm 2009, các cơ quan chính quyền địa phương đã thực hiện đánh giá chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh, tập trung vào 3 lĩnh vực chính: xây dựng chính sách; thực thi chính sách; và thực hiện cung ứng các dịch vụ công. Ngoài ra, đánh giá còn tập trung vào 6 nội dung của quản lý công, bao gồm: sự tham gia (của người dân); minh bạch; trách nhiệm giải trình; phòng, chống tham nhũng; triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính và dịch vụ công.
Trong lĩnh vực hoạt động xã hội, bao gồm cả quản lý, việc xác định hiệu quả đạt được thường gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Điều này là do nhiều chỉ số đánh giá các loại hoạt động này thường chỉ có thể định tính mà không thể định lượng. Ngược lại, để đánh giá hiệu quả của các hoạt động, các tiêu chí đánh giá cần phải được tích hợp chặt chẽ với đặc điểm cụ thể của từng ngành, lĩnh vực. Trong danh sách này, một số chỉ số quan trọng được áp dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, bao gồm: chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), cũng như chỉ số hài lòng của người dân đối với dịch vụ hành chính công (SIPAS).
1.1 Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), hay còn gọi là Provincial Competitiveness Index, là một thước đo về khả năng cạnh tranh của các tỉnh thành. Chỉ số này được thiết kế dựa trên đánh giá của doanh nghiệp về hiệu suất quản lý kinh tế và môi trường kinh doanh tại các địa phương nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và thân thiện. PCI là một bộ chỉ số lớn, được thực hiện một cách bài bản và nghiêm túc tại Việt Nam. Bộ chỉ số này được xây dựng từ dữ liệu khảo sát doanh nghiệp hàng năm, phản ánh một cách khá khách quan kết quả và quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp về môi trường kinh doanh tại các tỉnh, thành phố.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) không được thiết kế với mục đích nghiên cứu khoa học, ca ngợi hay chỉ trích các tỉnh có điểm số cao hoặc thấp. Thay vào đó, mục tiêu của PCI là khám phá và giải thích lý do tại sao một số tỉnh và thành phố có sự phát triển kinh tế tư nhân, tạo ra việc làm và đạt được tăng trưởng kinh tế vượt trội so với những địa phương khác. Mục đích này giúp xác định các “điểm nghẽn” trong quản lý và đưa ra giải pháp phù hợp, hỗ trợ các cơ quan nhà nước thực hiện cải cách một cách có hiệu quả nhất.
Năm 2017, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đã bao gồm 10 thành phần chính, phản ánh các lĩnh vực quan trọng trong quản lý kinh tế của các tỉnh và thành phố. Các thành phần này bao gồm:
a) Chi phí gia nhập thị trường ở mức thấp;
b) Khả năng tiếp cận đất đai dễ dàng và mặt bằng kinh doanh ổn định;
c) Môi trường kinh doanh minh bạch, cung cấp cơ hội tiếp cận công bằng thông tin kinh doanh và văn bản pháp luật;
d) Thời gian dành cho thủ tục hành chính và kiểm tra hạn chế;
đ) Giảm thiểu chi phí không chính thức;
e) Cạnh tranh công bằng – chỉ số mới;
g) Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong;
h) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp từ khu vực nhà nước và tư nhân;
i) Chính sách đào tạo lao động hiệu quả;
k) Hệ thống pháp luật và tư pháp giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
1.2 Đánh giá hiệu quả và năng lực quản lý hành chính công và cung cấp dịch vụ công ở cấp tỉnh
Chỉ số PAPI (tiếng Anh: Public Administration Performance Index) được thiết kế để đánh giá hiệu quả và năng lực quản lý hành chính công cũng như cung cấp dịch vụ công ở cấp tỉnh. Được đo lường thông qua trải nghiệm của người dân với việc thực thi chính sách, pháp luật và quy định của các cấp chính quyền địa phương, đây là công cụ đo lường hiệu quả và khả năng điều hành của quản trị hành chính công ở địa phương. Từ năm 2009, chỉ số này được triển khai bởi CECODES và UNDP tại Việt Nam, với sự hỗ trợ từ nhiều tổ chức khác, như: Tạp chí Mặt trận, Ban Dân nguyện Quốc hội và Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ Mặt trận Tổ quốc.
Hằng năm, khoảng 14.000 công dân, từ 18 tuổi trở lên được chọn một cách ngẫu nhiên để tham gia cuộc phỏng vấn kéo dài từ 45 đến 60 phút. Cuộc phỏng vấn nhằm đánh giá nhiều lĩnh vực khác nhau trong quản lý công, tập trung vào 6 nội dung chính, bao gồm: sự tham gia của người dân; công khai, minh bạch; trách nhiệm giải trình với người dân; kiểm soát tham nhũng trong hành chính công; thủ tục hành chính và cung ứng dịch vụ.
Chương trình đánh giá PAPI tập trung vào ba khía cạnh chính: xây dựng, thực thi và giám sát chính sách, xem xét người dân như những người sử dụng dịch vụ từ cơ quan nhà nước. Chỉ số này cung cấp các chỉ báo khách quan, hỗ trợ đánh giá hiệu quả quản trị hành chính và khuyến khích lãnh đạo địa phương cải thiện phương pháp quản lý và điều hành.
1.3 Chỉ số sự hài lòng của người dân, tổ chức (SIPAS)
Chỉ số SIPAS được sử dụng để đánh giá mức độ hài lòng của người dân và tổ chức đối với quá trình giải quyết thủ tục hành chính, và thu thập thông tin thông qua một quy trình điều tra xã hội học chi tiết. Đây là một công cụ đo lường chính xác và minh bạch, phản ánh một cách trung thực phản hồi từ cộng đồng về chất lượng dịch vụ mà cơ quan hành chính nhà nước cung cấp.
Dựa vào Quyết định số 2640/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ ngày 10/10/2017 việc phê duyệt Đề án đo lường sự hài lòng của người dân và tổ chức với dịch vụ cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2017-2020 đã được thiết lập. Trong khuôn khổ của đề án này, chỉ số SIPAS được xây dựng dựa trên năm yếu tố chính trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính công và bao gồm 22 tiêu chí cụ thể. Các tiêu chí bao gồm: (1) Đánh giá về khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công của các cơ quan nhà nước. (2) Xem xét về các thủ tục hành chính cần thiết. (3) Đánh giá sự phục vụ của công chức trong quá trình cung cấp dịch vụ. Xem xét về kết quả cung ứng dịch vụ hành chính công. (4) Phản hồi, giải quyết góp ý, phản ánh, và kiến nghị từ phía người dân và tổ chức. (5) Mỗi tiêu chí này đều đóng góp vào việc đo lường tổng thể sự hài lòng, qua đó giúp cải thiện chất lượng dịch vụ hành chính và nâng cao hiệu quả của cơ quan hành chính nhà nước.
2. Những vấn đề đặt ra trước khi xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân xã
Tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có một hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân ở mức tổng thể và đặc biệt là ở cấp xã. Việc đánh giá thường dựa vào báo cáo tổng kết hằng năm hoặc theo chu kỳ của các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Uỷ ban nhân dân các cấp, trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp xã là chủ thể thực hiện việc đánh giá bản thân về việc triển khai và thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ được đề ra trong kế hoạch. Có một số địa phương cấp tỉnh đã ban hành các quyết định quy định tiêu chí đánh giá, phân loại xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh. Nhằm mục tiêu xây dựng hệ thống quản lý chuyên nghiệp, đúng quy định và hướng tới sự hiện đại hóa từng bước, việc đánh giá hiệu quả quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp xã và việc xây dựng bộ chỉ số để làm cơ sở đánh giá đóng vai trò quan trọng. Trong thời gian gần đây, sự quan tâm đến việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính, cả trong và ngoài hệ thống nhà nước đã tăng lên.
Có thể thấy, một số nội dung mang tính hàm ý chính sách, gợi mở trong việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá đối với chính quyền địa phương ở xã cần tuân thủ theo nguyên tắc cơ bản là “tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân” và “quyền lực nhà nước được thống nhất, được phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, được lãnh đạo chặt chẽ bởi Đảng Cộng sản Việt Nam. Xác định rõ đối tượng phục vụ của cơ quan nhà nước chủ yếu là Nhân dân, mọi cách thức triển khai, bao gồm cả các tiêu chí đánh giá đều là biện pháp nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.
Chức năng và nhiệm vụ của chính quyền địa phương cấp xã bao gồm cả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã. Việc đánh giá cần thực hiện đồng bộ đối với cả hai cơ quan này để bảo đảm tính toàn diện. Nếu tách rời quá trình đánh giá sẽ dẫn đến thiếu tính đồng bộ và không thể có kết quả quản lý nhà nước hiệu quả dựa trên chủ trương, trong trường hợp này là các nghị quyết của Hội đồng nhân dân mà chưa đạt được sự khách quan, phù hợp với thực tế và yêu cầu cụ thể của địa phương. Ngược lại, dù có chủ trương đúng đắn nhưng nếu triển khai thiếu tính khả thi cũng sẽ không đạt được kết quả tốt.
Kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy, yêu cầu đặt ra cho cơ quan nhà nước là cần thực hiện lượng hóa, xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí đánh giá chính quyền địa phương ở xã thông qua văn bản quy phạm pháp luật. Bộ tiêu chí này sẽ bao gồm các chỉ số dựa trên nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền địa phương ở cấp xã là thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội và quốc phòng an ninh với ưu tiên đặc biệt cho việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, ngân sách và xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, chính quyền xã còn có các nhiệm vụ khác trong việc cung ứng dịch vụ công, đặc biệt là trong mối quan hệ với nhân dân, cơ quan, tổ chức và cá nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật. Các chủ thể đánh giá bao gồm cả đánh giá nội bộ của cơ quan nhà nước và đánh giá bên ngoài từ các tổ chức chính trị – xã hội cũng như từ cơ quan, tổ chức, và cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ công.
Nhìn chung, việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cho chính quyền địa phương ở cấp xã, trong đó có Uỷ ban nhân dân xã là một công việc không đơn giản, đặc biệt khi phải đối mặt với nhiều “biến số”. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tập trung vào chức năng và nhiệm vụ cụ thể của cơ quan này. Đánh giá không thể chỉ dựa vào ý kiến của người dân, tổ chức và cơ quan mà phải xem xét mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là trong trường hợp ngân sách địa phương không được thực hiện theo kế hoạch. Không nên chỉ dựa vào chỉ số kinh tế để đánh giá mà cần phải cân nhắc đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện là cần thiết nhằm xây dựng bộ tiêu chí linh hoạt và phản ánh đầy đủ sự tham gia của cộng đồng trong quá trình đánh giá. Điều này giúp bảo đảm tính khoa học và đồng thời cung cấp dữ liệu chất lượng để cơ quan nhà nước tự đánh giá, từ đó hoàn thiện công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là đối với chính quyền địa phương ở cấp xã và Uỷ ban nhân dân xã.
3. Đề xuất bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã
Từ việc thực tiễn đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và cấp xã nói riêng, có thể nhận thấy rằng, quá trình đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước cần phải được thể chế hóa thông qua việc ban hành các quy định, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Việc xây dựng quy định về đánh giá hiệu quả quản lý hệ thống công nghiệp, nông nghiệp cần đặt ra những vấn đề chính, như: mục tiêu của đánh giá, hệ thống tiêu chí đánh giá, chủ thể có thẩm quyền đánh giá, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và đối tượng được đánh giá, phương pháp thực hiện đánh giá, các cơ quan và tổ chức tiếp nhận và xử lý kết quả đánh giá hiệu quả, cũng như chế tài khen thưởng và xử lý kỷ luật liên quan đến hoạt động đánh giá, đề xuất một số tiêu chuẩn điểm số và tỷ lệ như sau:
Tiêu chuẩn 1: Chấm điểm, đánh giá, xếp loại Uỷ ban nhân dân xã, có 3 tiêu chí:
Tiêu chí 1: Đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, và kế hoạch liên quan đến chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã trong các giai đoạn cụ thể (đồng thời xem xét các chi phí liên quan để đạt được kết quả này).
Tiêu chí 2: Đánh giá tổ chức và các hoạt động cụ thể của Uỷ ban nhân dân cấp xã dựa trên các yếu tố sau: đánh giá mức độ hợp lý của cơ cấu tổ chức bộ máy; xem xét kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ, và thẩm quyền được giao của tổng thể bộ máy cũng như từng bộ phận cấu thành của chính quyền cấp xã; đánh giá năng lực, uy tín, và hiệu suất công tác của đội ngũ cán bộ và công chức cấp xã, đặc biệt là đánh giá về cán bộ lãnh đạo và quản lý; phân tích mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư địa phương đối với các hoạt động quản lý nhà nước. Kết quả báo cáo định kỳ
Tiêu chí 3: Hiệu quả quản lý nhà nước có nội rõ ràng, cụ thể. Việc đánh giá dựa trên tiêu chí này yêu cầu tiếp cận theo các phương thức hoạt động chủ yếu của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở một số khía cạnh: hiệu quả các phiên làm việc của tập thể Uỷ ban nhân dân cấp xã: Theo quy định hiện hành, Uỷ ban nhân dân cấp xã mỗi tháng ít nhất họp một lần (thảo luận tập thể và quyết định theo đa số); hiệu quả làm việc của cá nhân chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã; hiệu quả làm việc của các Phó chủ tịch và các thành viên khác (nếu có) của Uỷ ban nhân dân cấp xã; hiệu quả làm việc của các công chức cấp xã và các bộ phận chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Khi đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã có thể xác định theo các lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể căn cứ vào Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) cấp xã trên các phương diện sau đây:
(1) Tình hình phát triển kinh tế của địa phương: chỉ số phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ… Tổ chức thu, chi ngân sách, phân bổ ngân sách và các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Việc khai thác, phát huy nguồn lực để xây dựng và quản lý, sử dụng hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng.Phát triển các loại hình tổ chức kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế hộ gia đình…), biện pháp phát huy lợi thế cạnh tranh, phát triển ngành nghề truyền thống ở địa phương.
(2) Tình hình phát triển văn hóa – xã hội: biện pháp phát triển giáo dục ở cấp xã tập trung vào các bậc học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, chương trình bổ túc văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; tổ chức các lễ hội truyền thống, bảo vệ và phát huy phong tục, tập quán tốt đẹp, các di sản văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh ở địa phương. Bảo đảm giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, thực hiện chương trình y tế cơ sở, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách đối với những người và gia đình có công với nước, thực hiện công tác cứu trợ xã hội…
(3) Tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội, cũng như bảo vệ Tổ quốc: thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự công cộng và an toàn xã hội; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, tệ nạn xã hội cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn.
(4) Tình hình thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo: dựa trên hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân địa phương, tuân thủ theo quy định của pháp luật.
(5) Tình hình thi hành pháp luật tại địa phương: công tác phổ biến và giáo dục pháp luật, cũng như công tác hòa giải và giải quyết các vi phạm pháp luật, tranh chấp nhỏ ở địa phương theo quy định của pháp luật. Công tác tiếp công dân, hòa giải ở cơ sở, giải quyết khiếu nại, và giải quyết tố cáo từ công dân. Theo nội dung báo cáo để đánh giá và xếp loại Uỷ ban nhân dân cấp xã hằng năm.
Tiêu chuẩn 2: Đánh giá, chấm điểm hiệu quả quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân xã theo tỷ lệ, có 2 tiêu chí.
Ngày 19/8/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 3494/QĐ-Uỷ ban nhân dân về phê duyệt Đề án xác định chỉ số cải cách hành chính của sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, quận, huyện trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Mục tiêu của Chỉ số cải cách hành chính là hướng tới thực hiện chương trình cải cách hành chính, nâng cao Chỉ số cải cách hành chính Thành phố giai đoạn 2020 – 2025, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này nhấn mạnh vào việc đánh giá và cải thiện hiệu suất của các đơn vị quản lý và cung cấp các tiêu chí rõ ràng để bảo đảm sự đồng bộ và hiệu quả trong quá trình thực hiện cải cách hành chính. Như vậy, trong việc thực hiện cải cách hành chính, Uỷ ban nhân dân xã được phân loại theo các tiêu chí:
Các tiêu chí có định lượng:
+ 100% so với kế hoạch trở lên thì chấm điểm cao nhất;
+ Từ 80% đến dưới 100% kế hoạch, bị trừ 1/3 số điểm chuẩn;
+ Từ 50% kế hoạch đến dưới 80% kế hoạch, bị trừ 2/3 số điểm chuẩn;
+ Dưới 50% kế hoạch sẽ bị 0 điểm.
Tiêu chí không định lượng được:
+ Nếu hoàn thành đúng thời hạn, chất lượng cao và đầy đủ sẽ đạt điểm cao nhất;
+ Nếu không hoàn thành hoặc không hoàn thành đúng thời hạn sẽ bị trừ 1/3 điểm;
+ Nếu không hoàn thành đúng thời hạn sẽ bị trừ 2/3 điểm; nếu không làm điều này, sẽ nhận được 0 điểm.
Sau khi chấm điểm, những xã vi phạm nội dung sau sẽ bị trừ 5 điểm.
– Có cán bộ, công chức vi phạm bị xử lý kỷ luật;
– Để xảy ra trọng án trên địa bàn.
Từ bảng điểm, tiêu chuẩn và phương pháp chấm điểm quản lý nhà nước đều trên góc độ hiệu quả của công việc mang tính tham khảo và thực tế cần áp dụng những kinh nghiệm trong thực tiễn ở các khía cạnh khác nhau sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội của các khu vực và địa bàn trong cả nước.
Để thực hiện điều đó, cần tập trung vào việc thay đổi nhận thức và quan điểm về vai trò của Ủy ban Nhân dân cấp xã, ý nghĩa của công tác đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước tại cấp xã, cũng như tầm quan trọng của hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Đồng thời, cần thiết phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng về các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Các cơ quan trung ương cần thiết lập khung tiêu chí và nguyên tắc xác định tiêu chí. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể, các địa phương sẽ phát hành văn bản cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương. Đồng thời, quan trọng là xây dựng đội ngũ làm công tác đánh giá với số lượng đủ, bảo đảm chất lượng, được trang bị các kỹ năng và phẩm chất cần thiết, hoạt động chuyên nghiệp.
4. Kết luận
Đề xuất xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã là một nhiệm vụ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính và chuyển đổi số tại TP. Hồ Chí Minh. Uỷ ban nhân dân các xã đóng vai trò chủ chốt trong việc triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với cộng đồng, đồng thời trực tiếp giải quyết mọi công việc phục vụ người dân. Đây là cấp quản lý nhà nước thể hiện rõ sự phục vụ nhân dân của hệ thống cơ quan quản lý.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội địa phương, Uỷ ban nhân dân các xã cần có khả năng nhận biết điểm mạnh và hạn chế cần khắc phục trong quá trình lãnh đạo và quản lý. Điều này giúp tạo ra sự đồng thuận trong cộng đồng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội ở cấp cơ sở. Do đó, việc xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể là cần thiết để nhận thức đúng về tình trạng hiện tại, từ đó có cơ sở để nhận diện và thay đổi thái độ, hành vi cũng như phương thức quản lý.
Thông qua quá trình này, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương có thể đề xuất các phương hướng giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý của ủy ban nhân dân xã, từ đó đáp ứng điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một xã hội do Nhân dân, vì Nhân dân.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019.
3. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030.
4. Kết luận số 48-KL/TW ngày 30/01/2023 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030.
5. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
6. Quyết định số 2640/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ ngày 10/10/2017 về việc phê duyệt Đề án đo lường sự hài lòng của người dân và tổ chức với dịch vụ cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2017-2020.
7. Quyết định số 3494/QĐ-Uỷ ban nhân dân ngày 19/8/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về phê duyệt Đề án xác định chỉ số cải cách hành chính của sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, quận, huyện trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.