Phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội

Thiếu tá, ThS. Vũ Thành Huyến
Thiếu tá. Vũ Minh Thành
Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát huy vai trò của trí thức trẻ tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của các nhà trường quân đội. Trong đó, năng lực tư duy sáng tạo là nền tảng cơ sở để đội ngũ này khẳng định khả năng của mình. Bài viết nêu một số vấn đề cần thực hiện nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.

Từ khoá: Nghiên cứu khoa học, trí thức trẻ, tư duy sáng tạo.

1. Đặt vấn đề

Trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có tuổi đời chưa quá 40, đã tốt nghiệp đại học, đang học tập, công tác ở các học viện, trường sĩ quan quân đội; có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng truyền thụ, giáo dục, đào tạo, tích lũy và làm giàu tri thức, tạo ra sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. 

Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, trí thức trẻ ở là lực lượng quan trọng, trực tiếp tham gia các hoạt động khoa học ở các học viên, trường sĩ quan quân đội. Chất lượng công tác khoa học quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan. Một trong những yếu tố chủ quan giữ vai trò quan trọng chính là trí thức trẻ. Chất lượng, hiệu quả công tác khoa học quân sự ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành, phát triển phẩm chất, nhân cách và năng lực của đội ngũ cán bộ, sĩ quan trong tương lai, ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến vấn đề xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Bên cạnh đó, đây còn là nguồn kế cận đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia quân sự của quân đội và của quốc gia. 

2. Năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội

Trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hầu hết là những người được đào tạo chính quy, được trang bị hệ thống kiến thức cơ bản và toàn diện, đặc biệt là hệ thống kiến thức chuyên sâu chuyên ngành. Đa phần trí thức trẻ có năng lực tư duy nhanh nhạy, năng động, sáng tạo trong hoạt động xã hội, mạnh dạn trong tiếp thu và lĩnh hội những tri thức mới, đặc biệt là ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Đây thực sự là những ưu thế, những điều kiện cần và đủ của lực lượng kế cận, kế tiếp, thế hệ trực tiếp tạo nên chất lượng đội ngũ nhà khoa học và các chuyên gia quân sự trong tương lai, thế hệ góp phần quan trọng đưa các học viện, nhà trường quân đội nhanh chóng hội nhập với nền giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiện đại của quốc gia và quốc tế. Vì vậy, có thể nói tương lai, uy tín, vị thế của các học viện, trường sĩ quan quân đội phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất nhân cách và năng lực của trí thức trẻ. Trong đó, năng lực tư duy sáng tạo là yếu tố quan trọng, là khả năng nhận thức, tiếp thu và vận dụng tri thức vào giải quyết nhiệm vụ khoa học đặt ra, tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, đảm bảo cho hoạt động khoa học của trí thức trẻ đạt chất lượng và hiệu quả cao. Năng lực này được biểu hiện cụ thể:

Một là, mức độ nắm bắt tri thức khoa học.

Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới và đời sống của con người trong miền khách thể. Thông thường tri thức được phân loại theo cấp độ hoặc lĩnh vực phản ánh. 

Xét ở phạm vi phản ánh của tri thức thì có tri thức về tự nhiên, về xã hội; còn xét ở trình độ phản ánh của tri thức thì có: tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức thông thường và tri thức khoa học. Tri thức là kết quả của hoạt động nhận thức nhưng khi tri thức đã được tích lũy trong mỗi con người lại đóng vai trò là tiền đề, cơ sở, điều kiện bên trong để thực hiện có hiệu quả hoạt động thực tiễn, sáng tạo ra tri thức mới. 

Xét về bản chất, phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học là quá trình tự giác, được hình thành thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học của trí thức trẻ từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng tới bản chất, từ bản chất cấp một tới bản chất cấp hai và mãi mãi. Đây là hoạt động tiếp thu tri thức từ các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật và vận dụng sáng tạo vào giải quyết các nhiệm vụ khoa học mềm dẻo, thuần thục, linh hoạt.

Hai là, trình độ xử lý thông tin khoa học.

Xử lý thông tin khoa học là quá trình liên kết các thành phần của tư tưởng, phản ánh mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, là cách thức tư duy được tổ chức, sắp xếp theo một quy trình chặt chẽ, dựa trên cơ sở quy luật hoạt động nhận thức của con người. Tư duy gồm các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận và các phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… Trình độ xử lý thông tin khoa học quy định khả năng phản ánh đầy đủ và sâu sắc bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. 

Nhờ xử lý thông tin khoa học, trí thức trẻ phản ánh được sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, thấy được cái bộ phận và cái tổng thể, bóc tách được cái bản chất của sự vật ra khỏi các hiện tượng bề ngoài của chúng, phát hiện ra mâu thuẫn bên trong các sự vật, hiện tượng, quán triệt được cái cụ thể cảm tính và tái tạo lại nó với tư cách là cái cụ thể phi cảm tính trong tư duy. Mỗi trí thức trẻ thường có những cách tiếp cận, nắm bắt, hiểu biết, xử lý các thông tin để có những quyết định khác nhau, người nào giải quyết khâu liên hoàn này một cách đúng đắn nhanh và hiệu quả thì người đó được coi là có năng lực tư duy sáng tạo phát triển cao, cho nên, trong nghiên cứu khoa học điều quan trọng nhất là phải rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo.

Ba là, khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết nhiệm vụ khoa học.

Khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết nhiệm vụ khoa học là mức độ áp dụng lý luận vào thực tiễn nghiên cứu khoa học của trí thức trẻ tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Nó là kết quả của quá trình xác lập các yếu tố, thuộc tính mới của sự vật, hiện tượng; làm cho sự vật, hiện tượng không còn là nó nhưng vẫn kế thừa, chọn lọc những yếu tố tích cực sang sự vật mới theo khuynh hướng tiến lên. Khả năng vận dụng sáng tạo là yếu tố đặc trưng cơ bản nhất của năng lực đưa lý luận vào thực tiễn nghiên cứu khoa học của trí thức trẻ. Nó là hệ quả tất yếu của sự vận động biện chứng giữa tri thức sâu rộng với phương pháp tư duy khoa học, năng lực sáng tạo bao gồm các yếu tố cảm xúc, ý chí, trí tưởng tượng và trực giác sáng tạo, những phẩm chất này đưa lại khả năng xem xét, giải quyết các nhiệm vụ khoa học một cách tự lực, chủ động, tích cực, có cân nhắc chọn lọc.

Khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết nhiệm vụ khoa học của trí thức trẻ được thể hiện ở các nội dung, như: nhận thức, quán triệt nhiệm vụ khoa học được giao, tiến hành các bước tổ chức nghiên cứu, sử dụng phương pháp, kỹ năng phù hợp với đòi hỏi công việc, năng lực nhận thức và giải quyết tình huống có vấn đề trong nghiên cứu để nâng cao năng lực sử dụng sáng tạo, linh hoạt tri thức đã có vào nghiên cứu khoa học và trong thực tiễn cuộc sống. 

Bốn là, khả năng khái quát cách làm mới.

Khả năng khái quát cách làm mới của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học được biểu hiện qua các hoạt động khoa học và các hoạt động sinh hoạt, học tập, công tác thường ngày. Khi giải quyết các nhiệm vụ khoa học, họ phải có khả năng phân tích, đánh giá, đối chiếu, so sánh với lý luận để điều chỉnh, bổ sung nhận thức. Thực hiện tổng kết sau mỗi nhiệm vụ, trí thức trẻ cần phải xác định đúng và trúng vấn đề mâu thuẫn đặt ra trong quá trình nghiên cứu; phải tự đúc kết kinh nghiệm, rút ra bài học để khái quát hóa, trừu tượng hóa, bổ sung tri thức là điều kiện, tiền đề cần thiết giúp trí thức trẻ giảm khoảng cách khác biệt giữa lý luận và thực tiễn. 

Khái quát cách làm mới là điều kiện để trí thức trẻ được nhìn nhận kết quả thực tế, tiếp tục tháo gỡ mâu thuẫn, xác định phương hướng, cách thức nghiên cứu hiệu quả hơn. Khải quát cách làm mới đòi hỏi trí thức trẻ phải có khả năng xác định đúng và trúng vấn đề nghiên cứu cần tổng kết, phải có khả năng khái quát và trừu tượng hóa khoa học để rút ra tri thức mới; phải có khả năng khắc phục những sai sót trong tư duy, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn.

3. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 

Thứ nhất, các học viện, trường sĩ quan quân đội cần tiếp tục đầu tư phát triển tiềm lực khoa học quân sự.

Năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học không chỉ phát triển dựa trên tiếp thu, lưu trữ hệ thống tri thức nền tảng mà nhà trường trang bị cho trong quá trình đào tạo mà còn dựa vào việc phát huy năng lực trí tuệ và các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa…để chiếm lĩnh, vận dụng hệ thống tri thức được trang bị, thông qua đó tư duy được đào luyện và phát triển. Nếu hệ thống tri thức lạc hậu, tiềm lực khoa học quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân đội không được đầu tư phát triển thì sẽ không tạo ra được động lực kích thích năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ phát triển.

Sự vững vàng về tri thức chỉ là điều kiện cần để người trí thức trẻ đảm nhận công việc được giao, bên cạnh đó họ phải nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ và sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp, kỹ năng giải quyết công việc. Chuyên môn, nghiệp vụ là sự thống nhất biện chứng giữa tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo, thực chất là cung cấp cho họ hệ thống tri thức và kỹ năng nghề nghiệp đặc thù phù hợp với phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ trong hoạt động khoa học. 

Tri thức nghề nghiệp được trang bị qua trường lớp; đồng thời còn do trí thức trẻ tự học, tự rèn, tổng kết khái quát kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện dần phương thức làm việc thông qua việc các hoạt động thực tiễn khác. Do đó, phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ, làm cho tư duy của họ xâm nhập sâu hơn vào bản chất, quy luật vận động, phát triển đối tượng nghiên cứu của khoa học, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ và giáo dục, đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. 

Vấn đề này đòi hỏi việc đầu tư phát triển tiềm lực khoa học quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, tạo ra sự thống nhất mới để trí thức trẻ có môi trường tiếp thu được nhiều tri thức hơn, phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo hướng dẫn hoạt động thực hành hiệu quả hơn. Vì vậy, các học viện, trường sĩ quan quân đội cần cân nhắc, tính toán, điều chỉnh sao cho phù hợp giữa đầu tư cho nguồn lực khoa học và đầu tư cho các nguồn lực khác. Đó cũng là cơ hội để tư duy của trí thức trẻ được “mài sắc”, các sản phẩm của tư duy như độc lập, tự chủ, sáng tạo có điều kiện phát triển và tự khẳng định trong thực tiễn. Đầu tư phát triển tiềm lực khoa học quân sự cần kế thừa thành tựu khoa học trong nước và của các nước có nền giáo dục tiên tiến, hiện đại theo hướng chú trọng phát triển năng lực phương pháp tư duy sáng tạo làm công cụ trong tiếp nhận tri thức khoa học, rèn luyện nhân cách cho trí thức trẻ.

Thứ hai, trí thức trẻ cần nắm vững bản chất khoa học, cách mạng và phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nghiên cứu khoa học. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình. Học để mà làm, lý luận đi đôi với thực tiễn. Trong Điều lệ và Cương lĩnh của mình, Đảng ta trước sau như một, khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là do bản chất khoa học, cách mạng của nó quyết định. 

Vượt lên trên tất cả các học thuyết, lý luận trong lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, điều kiện, lực lượng, phương pháp, hình thức đấu tranh giải phóng triệt để xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, đói nghèo dưới mọi hình thức trên cơ sở phát hiện ra những quy luật khách quan của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội loài người. Ngày nay, chỉ có đi theo học thuyểt Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới, đem lại hòa bình, hạnh phúc thật sự cho Nhân dân.

Với tư cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành vũ khí tinh thần sắc bén của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc sáng soi đường, dẫn lối đưa dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là nền tảng lý luận làm luận cứ khoa học cho phát triển lý luận quân sự quốc phòng Việt Nam; định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn làm cho hoạt động học tập, rèn luyện, công tác của trí thức trẻ. 

Hành trang của trí thức trẻ trong thời đại cách mạng công nghiệp, mở cửa hội nhập quốc tế cần phải trang bị đầy đủ phẩm chất, năng lực và duy nhất có một thứ không thể thiếu là phải nắm chắc bản chất khoa học, cách mạng, vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống và hoạt động nghiên cứu khoa học.

Vấn đề này đòi hỏi nắm vững bản chất khoa học, cách mạng và phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nghiên cứu khoa học không có nghĩa là học thuộc các khái niệm, phạm trù quy luật và các công thức rồi đem áp dụng một cách máy móc vào nhận thức, hoạt động thực tiễn, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, mà nắm vững phương pháp luận duy vật biện chứng trước hết là nghiên cứu sâu sắc và toàn diện các bộ phận cấu thành học thuyết ấy, hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng; biết vận dụng lý luận vào nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; hiểu được yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ đó biết vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết các vấn đề trong nghiên cứu khoa học. Nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin là nắm vững linh hồn sống động, nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp của học thuyết ấy mà không bị trói buộc bởi những câu chữ, những kết luận hay những khẩu hiệu có sẵn trong các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin. 

Thứ ba, trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cần khắc phục tư duy gò bó, phụ thuộc vào cái đã có trong nghiên cứu khoa học.

Thực tế cho thấy, lượng kiến thức cần cho cuộc sống và công tác của mỗi người không bao giờ được coi là đầy đủ, đối với trí thức trẻ, nhiệm vụ nghiên cứu đã và đang đòi hỏi mỗi người phải không ngừng bổ sung, cập nhật tri thức về nhiều mặt. Nếu mỗi trí thức trẻ không chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể với định hướng rõ ràng trực tiếp phục vụ cho việc nâng cao trình độ tri thức và năng lực, cái gì cũng muốn học hỏi ngay thì không thể có được vốn liếng tri thức để phát triển năng lực tư duy sáng tạo. Vì vậy, mỗi trí thức trẻ cần căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ và khả năng thực tế, các điều kiện đảm bảo để xác định nội dung tự học, tự nghiên cứu cho phù hợp với bản thân mình kể cả trước mắt và lâu dài. 

Vấn đề này đòi hỏi, tuân thủ thời gian, khắc phục mọi khó khăn, kiên quyết thực hiện kế hoạch tự học, tự nghiên cứu đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt được. Phương pháp tự học, tự nghiên cứu thực sự có hiệu quả là mỗi trí thức trẻ phải kết hợp lý luận với thực tiễn. Trí thức trẻ phải biết ứng dụng ngay tri thức đã tiếp nhận được vào giải quyết nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, phải biết thường xuyên tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận để phát triển tri thức lý luận ở lần sau đạt hiệu quả hơn. Hơn nữa trí thức trẻ phải biết tranh thủ ý kiến nhận xét, đánh giá của các chuyên gia, nhà khoa học về việc tự học, tự nghiên cứu của mình, phải lấy tập thể làm tấm gương soi cho mình, lấy hiệu quả công tác mà tự kiểm tra, đánh giá sự phát triển năng lực tư duy sáng tạo, từ đó điều chỉnh nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu phù hợp, thiết thực. 

Tăng cường tương tác giữa các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia với trí thức trẻ trong hoạt động nghiên cứu, nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục tuyên truyền, khắc phục sự bó hẹp thông tin đối với trí thức trẻ. Nếu lượng thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, không kịp thời, trí thức trẻ rất khó khắc phục các biểu hiện tư duy siêu hình, chủ quan, phiến diện… nảy sinh trong quá trình nghiên cứu khoa học. Để bảo đảm tính vững chắc của hệ thống tri thức và sự mềm dẻo của tư duy, phát triển năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của trí thức trẻ, nhà trường phải đổi mới hoạt động khoa học. Bởi lẽ, phải thông qua các hoạt động thực tiễn này, năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ mới được sự cọ sát, phát triển. 

Thứ tư, xây dựng môi trường làm việc năng động, sáng tạo theo hướng khuyến khích phát triển tài năng, trọng dụng nhân tài ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.

Là nhà trường quân đội, nên môi trường học tập, rèn luyện, công tác của trí thức trẻ mang tính đặc thù, bên cạnh nhiều tác động tích cực cũng cho thấy xuất hiện những yếu tố không thuận chiều tác động đến phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học. Do đó, xây dựng môi trường làm việc năng động, sáng tạo, khắc phục cho được những hạn chế nêu trên là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học.

Để thực hiện được vấn đề này, trước hết cần phải hướng dẫn sử dụng có hiệu quả mạng công nghệ thông tin để trí thức trẻ đăng ký khai thác, cập nhật, tìm kiếm cái mới, cái tiến bộ; đồng thời, mở rộng dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Mở rộng thông tin qua nhiều cách khác nhau như thời gian tra cứu tại thư viện điện tử và phòng máy để trí thức trẻ khắc phục sự bó hẹp thông tin. Nếu lượng thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, không kịp thời, trí thức trẻ rất khó khắc phục các biểu hiện tư duy siêu hình, chủ quan, phiến diện… nảy sinh trong quá trình nghiên cứu khoa học. 

Song song với việc cập nhật thông tin là mở rộng dân chủ trong nghiên cứu khoa học, cần tạo ra các điều kiện thuận lợi để thu hút trí thức trẻ tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ khoa học, tham gia viết báo, hội thảo khoa học, được phép tranh luận, phát biểu ý kiến, tiếp xúc với nhiều mối quan hệ xã hội;khắc phục sự áp đặt chủ quan, nâng quan điểm, chụp mũ, cứng nhắc tuyệt đối hóa kỷ luật quân đội. Đó là động lực, tác nhân kích thích sự phát triển năng lực tư duy sáng tạo. Ở đâu, khi nào và bao giờ cũng vậy, nếu không có dân chủ trong nghiên cứu khoa học thì ở đó, trí thức trẻ chưa có sự phát triển năng lực tư duy sáng tạo.

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự biến đổi mọi mặt của đời sống xã hội. Thực tiễn đã chứng minh ngày nay, quốc gia, dân tộc nào nắm được sớm và ứng dụng kịp thời thông tin khoa học thì quốc gia, dân tộc đó sẽ nắm được “chìa khóa” của sự cạnh tranh, hội nhập và phát triển. 

Đối với lĩnh vực quân sự, sớm nắm được thông tin là yếu tố quyết định để giành thắng lợi. Vì vậy, việc không ngừng cập nhật thông tin, mở rộng dân chủ trong nghiên cứu khoa học không chỉ tạo điều kiện thuận lợi giúp trí thức trẻ nắm bắt tri thức hiện đại, học hỏi kinh nghiệm từ lớp cha anh đi trước, từ đó vận dụng vào nghiên cứu là một trong những yêu cầu quan trọng đối với phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ. Xây dựng môi trường làm việc một cách năng động, sáng tạo cần gắn với việc giải quyết các chế độ, chính sách đối với trí thức trẻ phải được nghiên cứu, cải tiến phù hợp, vừa thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Quân đội; đồng thời, khắc phục được các biểu hiện tiêu cực như: chạy theo “thành tích” thuần túy trong nghiên cứu khoa học hoặc thụ động, trông chờ, ỷ lại, lười tư duy trong nghiên cứu, sự tự bằng lòng, thỏa mãn với cái hiện có, thiếu ý chí vươn lên trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện của một bộ phận trí thức trẻ.

4. Kết luận

Trí thức trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là lực lượng quan trọng, trực tiếp tham gia các hoạt động khoa học; nguồn kế cận đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia quân sự của quân đội và của quốc gia; lực lượng tích cực tham gia đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là trên không gian mạng. Năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học còn những khuyết điểm, hạn chế nhất định, có cả nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong đó nguyên nhân chủ quan từ sự thiếu tích cực, tự giác phát triển năng lực tư duy sáng tạo của chính trí thức trẻ là chủ yếu. Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển năng lực tư duy sáng tạo của trí thức trẻ trong nghiên cứu khoa học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.

Tài liệu tham khảo:
1. Phát huy vai trò của trí thức quân đội, quan điểm, kết quả và định hướng phát triển.https://hđll.vn, ngày 26/10/2022.
2. Đội ngũ trí thức quân đội với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.http://tapchicongsan.vn, ngày 03/4/2019.
3. Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu càu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới.