Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay 

TS. Phạm Thị Thùy
Trường Đại học Điện lực

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển đội ngũ giảng viên có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bài viết phân tích vai trò, thực trạng đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển đội ngũ này ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục ở nước ta.

Từ khóa: Đội ngũ giảng viên; giáo dục đại học; phát triển; trường đại học.

1. Vai trò của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học

Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, một trong những động lực quan trọng góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một điều kiện cần thiết để phát huy nguồn nhân lực, yếu tố cơ bản phát triển xã hội và đất nước bền vững. Vì vậy, sứ mệnh hiện nay của các cơ sở giáo dục đại học là đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học có chuyên môn cao, thích ứng hiệu quả với xu hướng toàn cầu hóa. 

Mặc dù mỗi trường có những mục tiêu, yêu cầu giáo dục khác nhau, đào tạo các ngành nghề với những đặc thù không giống nhau nhưng vai trò của đội ngũ giảng viên là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục của các trường đại học. Để thực hiện sứ mệnh trên, việc phát triển đội ngũ giảng viên năng động, tìm tòi, đổi mới, sáng tạo, trình độ chuyên môn tốt, có phương pháp giảng dạy tích cực, thích ứng tốt với nhiệm vụ trong thời đại mới thực sự là yêu cầu cấp thiết hiện nay. 

Đội ngũ giảng viên là chủ thể, nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, dịch vụ và sự phát triển của các trường đại học. Đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đại học là lực lượng sản xuất đặc biệt tạo ra sản phẩm là nguồn nhân lực, đồng thời là chủ thể định hướng kiến tạo sự phát triển bền vững của xã hội. Vai trò của đội ngũ giảng viên thể hiện như sau: 

Thứ nhất, giảng viên là nhà giáo dục: đây là vai trò truyền thống nhưng quan trọng và tiên quyết đối với một giảng viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là một người Thầy giỏi. Theo đó, một giảng viên toàn diện là người có 4 nhóm kiến thức/ kỹ năng, đó là: 

(1) Kiến thức chuyên ngành: kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành và chuyên môn giảng dạy. 

(2) Kiến thức về chương trình đào tạo: xu hướng đào tạo đại học hiện nay là đào tạo chuyên sâu kết hợp với cung cấp tư duy liên ngành, đa ngành, đa lĩnh vực (và đa văn hóa), vì chính những kiến thức này sẽ giúp người lao động thích nghi tốt trong các bối cảnh làm việc nhóm, dự án, từ đó, cộng tác với cá nhân từ các chuyên ngành khác biệt để cùng nhau giải các bài toán đa lĩnh vực.

(3) Kiến thức và kỹ năng về dạy và học: bao gồm khối kiến thức về phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và trong từng chuyên ngành cụ thể. Để thay đổi diện mạo và chất lượng dạy và học hiện nay ở các trường đại học, cần đầu tư nhiều hơn để nâng cấp phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên.

(4) Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá trị giáo dục: đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm nền tảng cho các hoạt động dạy và học. Chỉ khi mỗi giảng viên hiểu rõ được các sứ mệnh, giá trị cốt lõi và các mục tiêu chính của hệ thống giáo dục và môi trường giáo dục thì việc giảng dạy mới đi đúng định hướng và đem lại giá trị cho xã hội. 

Thứ hai, giảng viên là nhà khoa họcnghiên cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước và quốc tế) là ba chức năng chính của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng nghiên cứu chính: nghiên cứu cơ bản (basic research) và nghiên cứu ứng dụng (applied research). Thông thường nghiên cứu cơ bản được coi là vai trò chính của các giảng viên đại học. Còn nghiên cứu ứng dụng mang tính công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa các nhà khoa học và nhà ứng dụng (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội). Do vậy nghiên cứu ứng dụng thường có màu sắc của các dự án tư vấn được đặt hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp và do doanh nghiệp tài trợ.

Nghiên cứu khoa học phải đi kèm với công bố kết quả nghiên cứu. Và như vậy, trong vai trò nhà khoa học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm vững kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ năng viết báo khoa học.

Thứ ba, giảng viên là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hộiở vai trò này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên, cho các tổ chức, cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ, như: tham gia công tác quản lý, các công việc hành chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ thực tập, kết nối việc làm cho sinh viên, tham gia phản biện cho các tạp chí khoa học, tham dự và tổ chức các hội thảo khoa học… Trong chức năng này, giảng viên đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, cung cấp các kiến thức khoa học vào đời sống cộng đồng và giúp nâng cao dân trí.

Thứ tư, giảng viên thúc đẩy quốc tế hóa giáo dục đại họchiện nay, vai trò của các giảng viên đại học không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà tầm hoạt động phải hướng đến một không gian toàn cầu, phi biên giới. Việc đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục đại học sẽ góp phần nâng cao chất lượng và trải nghiệm học tập toàn cầu, giúp thúc đẩy quá trình hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam trong khu vực và trên thế giới để từ đó nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, hợp tác, trao đổi đội ngũ giảng viên và mang lại tiềm năng nghề nghiệp cho sinh viên. Để thực hiện được chức năng này, đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có trình chuyên môn cao, có khả năng tin học và ngoại ngữ thành thạo. 

3. Thực trạng đội ngũ giảng viên các trường đại học 

Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và xã hội cùng sự nỗ lực của bản thân, đội ngũ giảng viên đại học ngày càng phát triển, tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 2015 cả nước có khoảng 69.591 giảng viên thì đến năm 2021, đội ngũ giảng viên đã tăng lên 85.000 giảng viên. Như vậy, trong vòng 6 năm qua, cả nước được bổ sung thêm hơn 15.000 giảng viên – tính ra trung bình mỗi năm có thêm khoảng hơn 2.500 giảng viên giảng dạy. Trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên đại học cũng có sự thay đổi theo từng nhóm trình độ, tỷ lệ đạt chuẩn trình độ ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2015 cả nước có 78,52% giảng viên trình độ trên đại học và 21,41% đội ngũ giảng viên có trình độ đại học. Đến năm 2021, số giảng viên có trình độ trên đại học 92,64%, đội ngũ giảng viên có trình độ đại học còn 7,36%1.

Sau khi triển khai Đề án 89 về đào tạo đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học, năm 2022, đã có 187 cán bộ, giảng viên được đào tạo trong nước (đạt 24%), 80 người được đào tạo ở nước ngoài (đạt 32%); năm 2023, con số này lần lượt là 118 người đào tạo trong nước (đạt 37%), 130 người đào tạo ở nước ngoài (đạt 64%)2. Mặt khác, các trường cũng có nhiều chính sách để cạnh tranh, thu hút giảng viên giỏi chuyên môn, có trình độ cao (có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ, ưu tiên tốt nghiệp ở trường đại học uy tín ở nước ngoài) và khả năng nghiên cứu khoa học. Điều này cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học trên cả nước đã ý thức việc nâng cao chất lượng giảng viên và thực hiện chuẩn hóa trình độ đội ngũ giảng viên theo quy định của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học.

Kết quả số liệu của Tổng cục Thống kê từ năm 2015 – 2020 cho thấy, đội ngũ giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học công lập và ngoài công lập đều tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Về quy mô giảng viên đại học công lập, năm 2015 có khoảng 55.401 người, đến năm 2020, đội ngũ giảng viên tăng lên 58.338 giảng viên (tăng 5,03%). Như vậy, bình quân mỗi năm số giảng viên tăng cơ học khoảng gần 600 giảng viên. Về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học công lập, năm 2015, có khoảng 44.995 giảng viên có trình độ trên đại học (chiếm 81,22%), đội ngũ giảng viên trình độ đại học chiếm số lượng vẫn khá lớn 10.389 giảng viên (chiếm 18,75%). Đến năm 2020, bức tranh về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học công lập được nâng lên rõ rệt. Theo đó, tại các cơ sở giáo dục đại học công lập có khoảng 52.371 giảng viên có trình độ trên đại học (chiếm 92,73%), đội ngũ giảng viên chưa đạt chuẩn trình độ tối thiểu là thạc sĩ giảm xuống còn 6,47%, tương ứng với 3.774 giảng viên.

Đối với các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, năm 2015 có khoảng 14.190 giảng viên, đến năm 2020 tăng lên 18.238 giảng viên (tăng 28,53%). Về chất lượng giảng viên, năm 2020 số giảng viên có trình độ trên đại học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập là 15.890 giảng viên (chiếm 87,13%), giảng viên có trình độ đại học là 2.116 giảng viên (chiếm 11,6%)3

Phát triển khoa học – công nghệ trong các trường đại học ngày càng được đầu tư và đi vào thực chất. Thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học đã góp phần đào tạo, tăng cường tỷ lệ giảng viên có trình độ cao. Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên cũng được quan tâm và chú trọng phát triển. Từ đó, số lượng công trình công bố trong nước và quốc tế, số sáng chế, tài sản trí tuệ của giảng viên được tăng lên hằng năm. 

Sự lớn mạnh của đội ngũ giảng viên có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các trường đại học. Nhờ sự đóng góp của đội ngũ giảng viên mà các trường đại học ngày càng khẳng định được danh tiếng và chất lượng đào tạo. Theo báo cáo của Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2022, cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục duy trì và giữ vị trí tốt trong các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Theo đó, 5 cơ sở giáo dục đại học nằm trong top 1000+  theo xếp hạng thế giới 2022 của THE; 11 cơ sở giáo dục đại học nằm trong bảng xếp hạng đại học châu Á (QS Asian University Rankings 2022)4. Ngoài ra, số cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo được công nhận kiểm định cũng tăng lên, trong đó có cả chương trình đào tạo được kiểm định theo chuẩn kiểm định nước ngoài. 

Bên cạnh những kết quả đạt được thì đội ngũ giảng viên đại học hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên vẫn chưa theo kịp với sự vận động của đời sống kinh tế – xã hội. Một bộ phận giảng viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Một số cơ sở giáo dục đại học còn chậm trong chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới phương pháp dạy học và do kỹ năng công nghệ thông tin của giảng viên còn hạn chế nên nhiều giảng viên vẫn còn duy trì phương pháp giảng dạy cũ, lỗi thời; chủ yếu là “độc thoại” hay là “thầy đọc, trò chép”… Việc áp dụng phương pháp giảng dạy như vậy sẽ không phát huy được tính chủ động, tích cực của sinh viên trong quá trình dạy và học. Do đó, sinh viên sau khi ra trường không có kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn..

Về trình độ giảng viên, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng lên nhưng số lượng giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư còn khiêm tốn. Tính đến hết năm 2021, số giảng viên có chức danh giáo sư tham gia giảng dạy là 757 người (chiếm tỷ lệ 0,89%), số giảng viên có chức danh phó giáo sư (6,21%)5. Bên cạnh đó, có sự phân bố không đồng đều về giảng viên có trình độ cao giữa các khu vực lãnh thổ (các giáo sư, phó giáo sư thường tập trung ở một số trường đại học lớn tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh). 

Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên còn khiêm tốn, số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế chưa nhiều. Do năng lực ngoại ngữ của giảng viên hạn chế nên chỉ có khoảng 40% giảng viên cao cấp là giáo sư chỉ có từ 1 – 5 bài báo quốc tế nói chung, 1.88 bài ISI, SCI, SCIE và mới chỉ có 20% tổng số giáo sư có bài hệ thống ISI, SCI, SCIE6. Nghiên cứu khoa học là yếu tố nền tảng phản ánh kiến thức và trình độ của giảng viên nhưng chưa trở thành động lực thực sự của giảng viên. Phần lớn công việc chính của giảng viên vẫn là giảng dạy, thời gian dành cho nghiên cứu khoa học còn ít. Đây là hệ quả của sự giảng dạy quá tải đối với giảng viên, do tỷlệ chênh lệch quá lớn giữa sinh viên và giảng viên. 

4. Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học 

Với cơ chế tự chủ đại học như hiện nay, tùy theo mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của các trường và các cơ sở đào tạo mà việc xây dựng đội ngũ giảng viên có những định hướng và giải pháp khác nhau, tuy nhiên, để có được đội ngũ giảng viên đạt những tiêu chí mới thì cần phải thực hiện những giải pháp sau:

Một là, về phía nhà trường đại học, cần xác định việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên là yêu cầu cấp bách, sống còn, quyết định chất lượng đào tạo, uy tín và sự tín nhiệm của xã hội đối với sản phẩm của đơn vị đào tạo. Thay vì quản lý hành chính, cần chuyển mạnh sang quản lý chất lượng một cách chuyên nghiệp, coi trọng năng lực thực tế của giảng viên, trong đó có cả năng lực nhận thức, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tạo môi trường học thuật dân chủ, sáng tạo để thúc đẩy tính tích cực của mỗi giảng viên trong quá trình thực hành nghề nghiệp. Tôn trọng phản biện xã hội và các ý kiến từ phía giảng viên và người học. Tạo điều kiện để giảng viên được trải nghiệm, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao năng lực từ chính quá trình giảng dạy trên lớp và nghiên cứu khoa học. 

Các trường đại học cần xây dựng cơ cấu đội ngũ giảng viên bảo đảm hài hòa, hợp lý về: độ tuổi, giới tính, học hàm, học vị, nguồn đào tạo, lực lượng hiện có… để đội ngũ này ngày càng phát triển ổn định, duy trì được tính liên tục, tính kế thừa và khắc phục được những hạn chế còn tồn tại. Có chiến lược lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý và đãi ngộ xứng đáng đội ngũ giảng viên có trình độ cao; điều chỉnh chính sách lương, phụ cấp ưu đãi, cơ chế đãi ngộ phù hợp, tạo động lực và điều kiện cho đội ngũ giảng viên phát triển. 

Xây dựng bộ khung tiêu chí đánh giá năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên một cách khách quan, khoa học. Tiêu chí đánh giá phải đo được thực chất trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp của giảng viên và bám sát tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp.

Các trường cũng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học, gắn nghiên cứu khoa học với đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy; xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm tăng cường trao đổi học thuật, sáng kiến kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học; tổ chức và khuyến khích đội ngũ giảng viên tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước nhằm trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, các nhà trường nên nâng kinh phí cho đề tài nghiên cứu khoa học của giảng viên, theo đó nên chủ động hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất – kinh doanh, tổ chức quốc tế để thu hút nguồn kinh phí tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên, vừa giúp các đề tài có tính ứng dụng cao hơn. 

Hai là, về phía giảng viên, cần xác định việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn là yêu cầu tất yếu; vừa là trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, vừa là vấn đề quyết định vị trí công tác, mức độ tín nhiệm của sinh viên, đồng nghiệp và nhà trường đối với giảng viên; tự ý thức về lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của mình. Thường xuyên tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tri thức, kỹ năng; có tư duy mở, linh hoạt, chủ động tiếp cận tri thức, phương pháp mới; lựa chọn, thử nghiệm và tự đánh giá phương pháp, kỹ năng đào tạo của mình. Đây được xem là khâu cốt yếu.

Để nâng cao năng lực giảng dạy của mình, mỗi giảng viên cần xác định những đặc điểm chuyên môn do mình phụ trách, biết lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với chuyên môn, với từng đơn vị kiến thức thuộc chuyên môn đó; nắm bắt được đặc tính, sở thích và khả năng thích ứng của người học với những phương pháp giảng dạy khác nhau; thường xuyên tiếp cận những xu thế của thời đại trong học tập và phát triển cũng như công nghệ học tập, giáo dục và đào tạo…  Chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học là một động lực thúc đẩy bản thân giảng viên mau tiến bộ. Thường xuyên tìm tòi, mạnh dạn áp dụng cách thức tổ chức dạy học, phương pháp đào tạo tích cực, chủ động, giúp sinh viên tiếp cận, lĩnh hội tri thức cũng như khả năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức trong thực tiễn. 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, với vai trò quan trọng của tri thức khoa học, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong giảng viên càng có ý nghĩa thiết thực. Vì vậy, đội ngũ giảng viên cần phải làm nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ. Công việc này vừa là yêu cầu, nhiệm vụ, vừa là quyền lợi của giảng viên; vừa đem lại uy tín khoa học cho họ, và cũng vừa xây dựng uy tín đào tạo cho nhà trường. 

5. Kết luận

Phát triển đội ngũ giảng viên đại học là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chính sách phát triển giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Trước yêu cầu của thực tiễn dạy và học hiện nay, đòi hỏi các trường đại học và đội ngũ giảng viên cần phải chú trọng phát triển năng lực của giảng viên, bảo đảm có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có phương pháp giảng dạy tích cực, có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, có ngoại ngữ tốt và có năng lực nghiên cứu khoa học. Có như vậy, đội ngũ giảng viên mới có thể đảm đương được nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong xu thế phát triển mới.

Chú thích:
1. Tổng cục Thống kê. Kết quả số liệu thống kê khảo sát về số giảng viên các trường đại học phân theo trình độ chuyên môn giai đoạn 2015 – 2021. Hà Nội, 2021.
2. Báo cáo tổng kết năm học 2022 – 2023 của Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Tổng cục Thống kê. Kết quả số liệu thống kê khảo sát về số lượng giảng viên các trường đại học phân theo khu vực giai đoạn 2015 – 2020. Hà Nội, 2020.
4. Báo cáo tổng kết năm học 2021 – 2022 của Vụ Giáo dục đại họcBộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Tỷ lệ giảng viên đại học có chức danh giáo sư ở Việt Nam chỉ đạt 0,89%. https://vietnamnet.vn, ngày 14/9/2022.
6. Nguyễn Đức Huy. Thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên cao cấp tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam. Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số 03/2018.