Xây dựng lực lượng dự bị động viên Bắc Giang thời kỳ đổi mới

Thượng tá, ThS. Nguyễn Trường Hải
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã để lại nhiều tư tưởng, nghệ thuật quân sự và bài học giữ nước quý báu. Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có nhiều thời cơ và thách thức, trong đó xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc diễn ra ngày càng gay gắt và khó lường. Do đó, để xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu sẵn sàng huy động tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu khách quan đối với cả nước nói chung và của tỉnh Bắc Giang nói riêng.

Từ khóa: Dân quân tự vệ; bảo vệ Tổ quốc; lực lượng dự bị động viên; tỉnh Bắc Giang.

1. Xây dựng lực lượng dự bị động viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng lực lượng dự bị động viên là quy luật phổ biến nhằm duy trì sức mạnh quân sự của mỗi quốc gia. Lịch sử quân sự thế giới cho thấy, xây dựng lực lượng dự bị động viên đã được các chế độ nhà nước áp dụng để duy trì củng cố tiềm lực, sức mạnh quân sự, chuẩn bị tiến hành chiến tranh. Trong thời bình, không một quốc gia nào trên thế giới, kể cả quốc gia có tiềm lực về kinh tế và quân sự lại có thể duy trì một đội quân thường trực cần phải có trong thời chiến, mà đều phải thực hiện kết hợp giữa xây dựng quân đội thường trực với xây dựng lực lượng dự bị động viên. Khi chiến tranh nổ ra, các bên tham chiến đều phải tập trung huy động mọi nhân lực, vật lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi. Chính vì vậy, việc xây dựng lực lượng dự bị động viên trong thời bình là để duy trì sức mạnh quân sự cần thiết, giảm nhẹ gánh nặng về chi phí cho quân sự, tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội, đến khi chiến tranh xảy ra sẽ nhanh chóng huy động lực lượng dự bị động viên đã được xây dựng để bổ sung cho các đơn vị chủ lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến của quân đội.

Ở nước ta, xây dựng lực lượng dự bị động viên là nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang, là kế sách giữ nước của dân tộc ta trong lịch sử. Thời nhà Trần, nhân dân được tuyển đi lính theo chính sách “ngụ binh ư nông”, bảo đảm mỗi người dân là một người lính khi đất nước có hoạ ngoại xâm. Khi kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi, các triều đại phong kiến nước ta đều thực hiện cắt giảm quân số thường trực, đồng thời, chú trọng xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu. Kế sách giữ nước và nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang này đã góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc, đánh thắng quân xâm lược có ưu thế hơn ta gấp nhiều lần về quân số, vũ khí trang bị và khả năng tiếp tế hậu cần. 

Trong tác phẩm “Quân đội và cách mạng”, V.Lênin đã khẳng định “Khi nào trên thế giới còn người bị áp bức và bóc lột, thì chúng ta phải thực hiện vũ trang toàn dân chứ không phải là giải trừ vũ trang”1. Ông phê phán những nhận thức cho rằng, trong thời đại cách mạng vô sản chỉ cần xây dựng quân đội thường trực mà không chú ý đến vũ trang toàn dân. Theo quan điểm đó, V.Lênin nhắc nhở chính quyền Xô-Viết, cùng với việc xây dựng quân đội thường trực hùng mạnh phải hết sức chú ý làm sao cho công nhân, nông dân, các đảng viên cộng sản có thể học tập quân sự.

Trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác – Lênin, kế thừa và phát huy kinh nghiệm, truyền thống, kế sách, nghệ thuật giữ nước của cha ông và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm chăm lo đến việc xây dựng lực lượng dự bị động viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và thời đại. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, năm 1958, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự và xây dựng lực lượng hậu bị. Tại cuộc họp cán bộ cao cấp toàn quân (tháng 3/1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh “nhiệm vụ đó bao gồm việc xây dựng quân đội thường trực và xây dựng lực lượng hậu bị”2. Tháng 4/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành Luật Nghĩa vụ quân sự, trong đó quy định những người đã qua phục vụ tại ngũ là quân nhân dự bị hạng một, những người chưa qua phục vụ tại ngũ là quân nhân dự bị hạng hai. 

Trong các văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta khẳng định, để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, trong đó, quân đội với lực lượng thường trực có số lượng hợp lý, chất lượng cao; lực lượng dự bị động viên đủ về số lượng, chất lượng cao, sẵn sằng bổ sung cho lực lượng thường trực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh chiến đấu của quân đội chỉ có thể được duy trì liên tục khi có lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 05/10/2002 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới, trong đó xác định tổ chức xây dựng các đơn vị dự bị động viên có chất lượng toàn diện, chú trọng nâng cao chất lượng về chính trị, không ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân nhân dự bị; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”, xác định tiếp tục hoàn thiện thể chế để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ, công an xã và lực lượng dự bị động viên; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển đồng thời khẳng định “Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên”3, “tích cực chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc trong mọi tình huống”4.

2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên ở tỉnh Bắc Giang

Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối chính trị, quân sự của Đảng; các nghị quyết của Trung ương về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 về nhiệm vụ quân sự – quốc phòng, nhiệm vụ động viên quân đội và Nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Quân khu “về tăng cường lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới”. Ngay sau khi tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (ngày 01/01/1997), Đảng ủy quân sự tỉnh đã tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 16/NQ-TU ngày 03/11/1998 về tăng cường lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới, trong đó xác định “xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng lực lượng dự bị động viên là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng nhận các nhiệm vụ mới, đột xuất khi có lệnh động viên; Kế hoạch số 30/KH-TU ngày 25/11/2002 của Tỉnh ủy về tổ chức thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TW ngày 05/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình mới; Kế hoạch số 53/KH-TU ngày 11/3/2010 của Tỉnh ủy về thực hiện Kết luận số 41-KL/TW ngày 31/3/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TW ngày 05/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viêntrong tình hình mới.

Trên cơ sở nghị quyết, kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy quân sự tỉnh đã phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng trong Nhân dân về những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên; giúp Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ra quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và lực lượng vũ trang quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện. 

Hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã thể hiện sự quán triệt sâu sắc, tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đồng bộ, thống nhất chặt chẽ, hiệu quả về lực lượng dự bị động viên. Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành chỉ thị lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng – quân sự địa phương; các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã cụ thể hóa chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo và tổ chức thực hiện bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị. 

Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền địa phương đã triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị định của Chính phủ về đăng ký, quản lý quân nhân dự bị; đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật. Duy trì nghiêm túc nề nếp hành chính động viên trong đăng ký, quản lý quân nhân dự bị ở cấp huyện và cấp xã, thực hiện đầy đủ 6 chế độ đăng ký quân nhân dự bị, 5 chế độ đăng ký phương tiện kỹ thuật. Hệ thống sổ sách đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên bảo đảm đầy đủ theo quy định của Bộ Quốc phòng. Hằng năm, tổ chức phúc tra, nắm nguồn ở các cơ sở, kịp thời điều chỉnh bổ sung vào sổ đăng ký quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật. Trong giai đoạn từ 1996 – 2016, đã đăng ký quản lý được 139.873 quân nhân dự bị đủ điều kiện động viên, trong đó, gồm: 2.946 sỹ quan dự bị; 38.582 quân nhân dự bị hạng 1; 94.770 quân nhân dự bị hạng 2; 3.575 nữ có chuyên môn kỹ thuật cần cho Quân đội; hàng nghìn phương tiện kỹ thuật thuộc diện huy động bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội5.

Các địa phương, đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ việc sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị dự bị động viên. Trong đó, chú trọng sắp xếp ưu tiên đúng chuyên nghiệp quân sự là chính, kết hợp với gần, gọn địa bàn; người có trình độ chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kỹ thuật phù hợp với chức danh biên chế; có tỷ lệ dự phòng trên 10% so với quân số quy định; ưu tiên sắp xếp đơn vị bộ đội chủ lực, đơn vị chiến đấu và các đơn vị có khung thường trực.

Hằng năm, UBND các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã kịp thời kiện toàn Hội đồng nghĩa vụ quân sự. Chủ trì tổ chức Hội nghị hiệp đồng với đơn vị nhận nguồn ở cấp tỉnh, huyện; thống nhất số lượng, chất lượng quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật, địa điểm, thời gian huấn luyện, phương thức giao nhận; ra quyết định giao chỉ tiêu động viên huấn luyện, diễn tập và kiểm tra sẵn sàng động viên cho các địa phương. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị làm tốt công tác bảo đảm cho huấn luyện; tổ chức huấn luyện chặt chẽ, hoàn thành 100% chỉ tiêu đề ra. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hàng chục cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh và cấp huyện, kết hợp với diễn tập về động viên, trong đó huy động một lượng lớn quân nhân dự bị tham gia thực binh. 

Thông qua diễn tập đã nâng cao trình độ, khả năng chiến đấu, tổ chức điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương; trình độ chỉ huy, hiệp đồng của cơ quan quân sự các cấp trong thực hành huy động, tiếp nhận và chỉ huy tác chiến đối với lực lượng dự bị động viên. Do đó, chất lượng tổng hợp của lực lượng dự bị động viên được nâng lên, sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội trong mọi tình huống, cùng toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhân dân, ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, được Quân khu 1 đánh giá là một trong những tỉnh có thành tích cao nhất trong xây dựng lực lượng dự bị động viên.

Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và chế độ, chính sách trong xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên được địa phương thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, hướng dẫn. Hằng năm, bảo đảm kịp thời vật chất hậu cần để tổ chức huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật theo chỉ tiêu trên giao. Công tác bảo đảm chế độ, chính sách trong xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên được tiến hành đúng quy định, trong thời gian huy động thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên đã bảo đảm đúng, đủ các chế độ về ăn, ở, sinh hoạt, quân trang, tiền lương…

Tuy nhiên, những năm qua, việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên còn bộc lộ một số hạn chế, như: công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt hệ thống các văn bản về xây dựng lực lượng dự bị động viên của một số cơ quan, đơn vị, địa phương và trong Nhân dân chưa được chú trọng. Nhận thức của một số ngành, địa phương, doanh nghiệp về nhiệm vụ động viên quân đội chưa toàn diện; đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên của của một số địa phương thực hiện chưa chặt chẽ.

3. Một số kinh nghiệm

Qua quá trình xây dựng lực lượng dự bị động viên Bắc Giang, rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị đối với xây dựng lực lượng dự bị động viên. Chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viêncủa cấp ủy đảng các cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chủ yếu là nhận thức, trách nhiệm, năng lực của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và người đứng đầu các cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị – xã hội, Nhân dân và quân nhân dự bị các đơn vị dự bị động viên; trong đó, vai trò của cấp ủy, người đứng đầu có ý nghĩa quyết định. Vì đây là lực lượng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng lực lượng dự bị động viên; chịu trách nhiệm trước Đảng bộ, chính quyền về công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên của địa phương. Thực tiễn cho thấy, ở đâu cấp ủy, người đứng đầu có nhận thức đúng đắn, trách nhiệm cao, có năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thì ở đó nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên được tiến hành chặt chẽ, đúng quy định. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị đối với xây dựng lực lượng dự bị động viên là một kinh nghiệm hết sức quan trọng.

Hai là, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho các ban, ngành, đoàn thể và Nhân dân địa phương về chủ trương, biện pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên của Đảng bộ tỉnh; vai trò và trách nhiệm của các ban, ngành, đoàn thể và Nhân dân trong xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện tốt dân chủ cơ sở trong công tác tuyển chọn, bổ sung quân nhân dự bị vào các đơn vị dự bị động viên, thường xuyên giúp đỡ, hỗ trợ cho quân nhân dự bị làm nhiệm vụ, giúp đỡ các gia đình quân nhân dự bị gặp khó khăn; huy động tối đa các nguồn lực trên địa bàn trong thực hiện công tác chính sách đối với lực lượng dự bị động viên. Tổ chức cho Nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, đoàn thể kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, các cơ quan chức năng, chăm lo xây dựng lực lượng dự bị động viên.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp là yêu cầu khách quan có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, là sự sáng tạo có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong phương pháp cách mạng của Đảng. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trước hết là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các tổ chức chính trị xã hội và toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng dự bị động viên nói riêng. Căn cứ vào quy định của Luật về lực lượng dự bị động viên; văn bản của Nhà nước; các bộ, ban, ngành trung ương, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, ban, ngành chủ động tham mưu kịp thời giúp cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chỉ đạo, thực hiện tốt việc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên; đồng thời, vận động cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với công tác động viên quân đội. 

Bốn là, thường xuyên quan tâm tạo nguồn lực lượng dự bị động viên. Tích cực xây dựng và triển khai công tác tạo nguồn dự bị động viên một cách đồng bộ, từ việc quy hoạch động viên gắn với địa bàn tuyển quân đến việc tuyển chọn đối tượng phù hợp, chú trọng đến các địa bàn, địa phương có khó khăn về nguồn. Trong tạo nguồn, cần xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định giữa nhu cầu và nguồn hiện có, từ đó, đề xuất các giải pháp tạo nguồn phù hợp, bảo đảm địa bàn nào cũng có nguồn để đáp ứng yêu cầu xây dựng các đơn vị dự bị động viên theo chỉ tiêu được giao. Làm tốt công tác phối hợp giữa cơ quan quân sự địa phương với các đơn vị thường trực và các cơ quan liên quan thực hiện nghiêm chế độ, nề nếp đăng ký và quản lý nguồn dự bị động viên; gắn nhiệm vụ tuyển quân với xây dựng lực lượng dự bị động viên; quản lý chặt chẽ số lượng, chất lượng quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật.

Sáu là, thường xuyên tổ chức công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm sau mỗi nhiệm vụ, giai đoạn trong xây dựng lực lượng dự bị động viên. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết là những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được xác định đúng đắn và chấp hành triệt để. Thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, đánh giá đúng những thành tựu, hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn xây dựng lực lượng dự bị động viên của tỉnh, chỉ ra được những nguyên nhân thành tựu và nguyên nhân hạn chế, trong đó cần đánh giá đúng nguyên nhân chủ quan, rút ra những bài học kinh nghiệm của thành công và không thành công, để từ đó tạo ra nhận thức mới, cách làm mới, kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, giải pháp tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tỉnh trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở địa phương và cơ sở.

Tài liệu tham khảo:
1. Lênin toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 137.
2. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 365.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, tr. 312, 150.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Pháp lệnh Dự bị động viên, 2016.