Phát triển văn hóa, con người Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

TS. Khuất Thị Nga
Trường Đại học Thương mại

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết bàn luận về vấn đề phát triển văn hóa, con người Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc: nêu khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về phát triển văn hóa và con người Việt Nam; phân tích một số vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đưa ra một số đề xuất nhằm gia tăng hiệu quả trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Từ khóa: Văn hóa; con người Việt Nam; cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

1. Lý luận chung về phát triển văn hóa, con người Việt Nam 

a. Quan điểm Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh khái niệm văn hóa “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Luận điểm này của Người đã chỉ rõ mục đích của việc sáng tạo ra văn hóa của loài người chính là bởi nhu cầu sinh tồn và các nhu cầu căn bản khác của cuộc sống. Quan điểm này về cơ bản thống nhất với quan điểm về văn hóa của UNESCO, đồng thời trong quan điểm cũng chỉ rõ văn hóa bao gồm tất cả các giá trị vật chất và tinh thần của con người.

Ngoài ra, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa luôn phải hướng đến mục tiêu phục vụ con người, phục vụ quần chúng nhân dân. Người từng căn dặn những cán bộ làm công tác văn hóa rằng: “Một vấn đề nữa phải đặt rõ là văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là phục vụ công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”2. Văn hóa cần phải mang tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng. Văn hóa do con người sáng tạo ra, do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và mục đích cũng là để phục vụ lợi ích của chính quần chúng nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ cùng với kinh tế, chính trị, văn hóa nằm trong mục tiêu chung là nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Mục tiêu kiên định này đã được Người ghi lại trong “Di chúc”, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”3.

b. Quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Đảng ta tiếp tục nêu cao chủ trương phát triển văn hóa, con người trong điều kiện, hoàn cảnh mới.

Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là nghị quyết cho thấy sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa. Nghị quyết chỉ rõ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam vừa tiến bộ, hội nhập nhưng đồng thời phải giữ gìn được những giá trị truyền thống cốt lõi, tốt đẹp của dân tộc. Nghị quyết cũng khẳng định cần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện mọi mặt về cả tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,… Đồng thời, xây dựng văn hóa, con người được nhấn mạnh là tiền đề trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Với Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đã xác định mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”4. Trong bối cảnh mới, khi vấn đề phát triển bền vững trở thành mục tiêu chung của nhân loại thì phát triển văn hóa, phát triển con người toàn diện cũng trở thành động lực, nền tảng cho phát triển bền vững đất nước và bảo vệ tổ quốc.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, định hướng phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới tiếp tục khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”5. Như vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, vấn đề phát triển con người đã được gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thuật ngữ “sức mạnh mềm”, “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam” lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam và sức mạnh con người Việt Nam trở thành cội rễ của sức mạnh mềm văn hóa dân tộc, là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực và động lực to lớn của đất nước trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

2. Phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

a. Những thuận lợi trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Ngày nay nhân loại đã bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là cuộc cách mạng dựa trên sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo nên những sản phẩm công nghệ độc đáo, tạo nên sự liên kết mạnh mẽ giữa thế giới thực và thế giới ảo tác động đến kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Điều này làm nên sự khác biệt căn bản so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó.

Với đặc trưng như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu của nó đã và đang có sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội… Giáo sư Klaus Schwab, Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới nhận định “những thay đổi này sâu sắc đến mức, từ góc độ lịch sử nhân loại, chưa bao giờ có một thời điểm vừa tràn đầy hứa hẹn vừa tiềm tàng hiểm họa như lúc này”6. Sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến văn hóa, con người nói chung là một tất yếu khách quan và những tác động đó diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các thành tựu to lớn của nó giúp cho chúng ta có thể tiếp cận với lượng kiến thức đồ sộ của nhân loại một cách nhanh chóng hơn bất cứ thời đại nào trước đây. Theo thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông thì tỷ lệ người sử dụng internet ở Việt Nam là hơn 60%, đứng thứ 16 trên thế giới. Tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây: năm 2019, dân số Việt Nam đạt mốc xấp xỉ 97 triệu người, trong đó tỷ lệ cư dân thành thị là 36%. Trong số dân đó có tới 64 triệu người sử dụng internet ( chiếm tỷ lệ 66% dân số, tăng thêm 28% so với năm 2017). Đáng chú ý là thời gian trung bình người Việt Nam sử dụng internet hằng ngày là khá nhiều. Theo số liệu thống kê internet Việt Nam 2019, người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới mạng internet. 94% là tỷ lệ người dùng internet ở Việt Nam sử dụng internet hằng ngày và 6% là số người sử dụng internet ít nhất một lần trong tuần. Nhìn vào số liệu thống kê có thể thấy, người dùng internet ở Việt Nam không tách rời các hoạt động liên quan đến internet quá một tuần7.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là cơ hội quý rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu chung trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Nhờ công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, các giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt Nam (lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, đức tính cần cù, lối sống tình nghĩa thủy chung,…), các di sản văn hóa của đất nước Việt Nam được lan lỏa nhanh chóng, rộng rãi và được mọi tầng lớp nhân dân và bạn bè trên khắp thế giới biết tới.

Với mục tiêu chung là xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” các thành tựu trong công nghệ thông tin sẽ là công cụ hỗ trợ đắc lực để người Việt Nam tiếp cận nhanh chóng với các giá trị tinh hoa trong văn hóa nhân loại, từ đó trở về xây dựng đất nước hiện đại, văn minh. Đồng thời, công nghệ cũng góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc bằng những cách thức mới, phong phú để lưu truyền cho những thế hệ sau.

Các phương tiện truyền thông xã hội (Facebook, X, Youtube, Instagram, Tiktok,…) đã trở thành hiện tượng văn hóa mới, nơi diễn ra các hoạt động thông tin, văn hóa đa dạng và phong phú, chứa đựng nhiều giá trị và cả phản giá trị, lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa và hạn chế, phá hoại sức mạnh mềm văn hóa quốc gia… Do đó, phát triển ngành “công nghiệp văn hóa” đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới và nước ta hiện nay.

b. Khó khăn, thách thức trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Thứ nhất, công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang góp phần làm thay đổi nhận thức, lối sống của người Việt Nam. Từ đó làm biến đổi hệ giá trị văn hóa của dân tộc, con người Việt Nam.

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, con người cá nhân dường như có quá nhiều cơ hội tiếp cận với thế giới bên ngoài, từ đó tạo nên một thế giới ảo và những mối quan hệ ảo. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc con người rời xa gia đình vốn là tổ ấm của mỗi người, làm cho các quan hệ anh em, họ hàng trở nên lỏng lẻo, thậm chí là đánh mất chính mình.

Những tiến bộ công nghệ trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm gia tăng sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa bên ngoài, trong đó có nhiều yếu tố vốn không phù hợp, thậm chí đi ngược lại với thuần phong, mỹ tục của dân tộc Việt Nam, làm phai nhạt những bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc. Các quốc gia trên thế giới tiếp tục phải đối mặt với thực tế khi bối cảnh thời đại khiến cho văn hóa, bản sắc văn hóa trở thành yếu tố cuối cùng giúp các quốc gia, dân tộc không bị xóa nhòa trên bản đồ thế giới thì chính sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số lại là chất xúc tác làm gia tăng nhanh chóng nguy cơ đó. Bài toán đặt ra cho Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đó là: phát triển nhanh, mạnh nền kinh tế – xã hội nhưng không đánh đổi bằng sự “hòa tan” của bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí cách mạng công nghiệp lần thứ tư cần thiết trở thành yếu tố thúc đẩy sự đa dạng và tiến bộ của văn hóa nước nhà.

Thứ hai, cách mạng trong công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển con người Việt Nam hiện đại.

Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ khiến cho mỗi cá nhân trở nên mất tự do hơn. Sự gia tăng tỷ lệ người dùng và tần suất sử dụng mạng xã hội đang có xu hướng thuận với tình trạng đánh cắp thông tin người dùng, gia tăng tội phạm mạng ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Giờ đây, con người lại cảm thấy bất an vì thông tin cá nhân, tài liệu, bí mật cá nhân hoàn toàn có thể bị lấy cắp bất cứ lúc nào, con người lại rơi vào tình trạng mất tự do nhiều hơn.

Việt Nam đang nỗ lực đưa công nghệ số vào đa dạng các ngành, nghề, điều đó dẫn đến việc tất yếu phải đối mặt với nguy cơ rò rỉ thông tin và bị đánh cắp bởi tội phạm mạng. Theo Công ty cổ phần công nghệ an ninh mạng quốc gia Việt Nam (NCS) 13.900 vụ tấn công an ninh mạng vào các hệ thống tại Việt Nam năm 2023, tăng 9,5% so với năm 2022. Trong đó, có tới 554 website của các cơ quan, tổ chức chính phủ và giáo dục có tên miền .gov.vn, .edu.vn bị xâm nhập, chèn mã quảng cáo cờ bạc, cá độ. Hơn 83.000 máy tính, máy chủ bị mã độc mã hoá dữ liệu tống tiền tấn công, tăng 8,4% so với năm 20228. Như vậy, an toàn thông tin đã trở thành vấn đề đáng quan ngại ở hầu khắp mọi quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc tìm ra những giải pháp để có thể tận dụng nhiều nhất những cơ hội mà cuộc cách mạng lần thứ tư mang lại cho đời sống kinh tế – xã hội nói chung thì Chính phủ Việt Nam cũng đã và đang đặt vấn đề an ninh mạng thành vấn đề quan tâm hàng đầu trong nền kinh tế số.

3. Một số đề xuất 

Một là, cần xác định được hệ giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam và giá trị cốt lõi của con người Việt Nam cần giữ gìn và phát triển trong bối cảnh hiện nay.

Đại hội XIII xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”9. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để chúng ta lan tỏa niềm tự hào, tự tôn đối với bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam đến mọi tầng lớp nhân dân và cộng đồng quốc tế. Từ đó, góp phần khẳng định giá trị riêng có của dân tộc ta trên bản đồ thế giới.

Để văn hóa thực sự trở thành “sức mạnh mềm”, nguồn lực nội sinh, động lực sánh ngang với kinh tế, chính trị,… trong phát triển đất nước thì cần phải có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Trong bối cảnh thời đại mới, Đảng cần xác định rõ hệ giá trị văn hóa quốc gia cần bảo tồn, cần phát huy, các phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam cần giữ gìn và phát triển.

Hai là, các hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam sau khi được xác định cụ thể thì cần được đưa vào trong hoạt động giáo dục mà trước tiên là giáo dục gia đình.

Gia đình là cội nguồn, là môi trường giáo dục đầu tiên, đặc biệt quan trong trong hình thành nhân cách con người. Chính vì vậy, muốn lưu giữ và phát huy các giá trị cốt lõi của văn hóa và con người Việt Nam thì cần thiết phải đưa vào hệ thống giáo dục nhiệm vụ này.

Ba là, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách cụ thể để khuyến khích người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ trong việc giữ gìn, quảng bá, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng cần có những chính sách và chỉ đạo cụ thể để biến công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thành động lực trực tiếp thúc đẩy phát triển văn hóa và con người Việt Nam.

Bốn là, Nhà nước ta cần có biện pháp, chế tài cụ thể, phù hợp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Cũng như những tác động tích cực thì tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến phát triển văn hóa và con người Việt Nam hiện nay cũng là một tất yếu. Do vậy, đối với những tác động tiêu cực, Đảng ta và Nhà nước cần có những chủ trương, biện pháp, chế tài cụ thể, phù hợp.

Đối với những hành vi đi ngược lại với những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa và con người Việt Nam đã được xác định thì cần có những biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm khắc.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ thông tin bùng nổ, các thế lực thù địch cũng ra sức lợi dụng những công nghệ này để phá hoại mục tiêu phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Do đó, Đảng và Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong việc phòng, chống tội phạm công nghệ mới và có chế tài xử phạt nghiêm khắc.

4. Kết luận

Giữ gìn và phát huy những giá trị cốt lõi trong văn hóa Việt Nam và xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện là nhiệm vụ to lớn của cả dân tộc Việt Nam. Dù ở thời kỳ nào nhiệm vụ này cũng quan trọng và gặp những khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi mà những thành tựu công nghệ mới khiến cho mọi mặt của xã hội biến đổi phức tạp thì sự phát triển văn hóa, con người Việt Nam lại càng gặp nhiều thách thức hơn nữa.

Việc nhận thức một cách toàn diện về những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến phát triển văn hóa, con người Việt Nam sẽ là hành trang cần thiết để chúng ta có thể vạch ra được những chiến lược phát triển phù hợp, những giải pháp hiệu quả trong việc xây dựng, phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện.

Chú thích
1. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 458.
2. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 558 – 559
3. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 612
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội, 2014.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 330.
6. Klaus Schwab. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2018, tr. 14.
7. Hơn 60% dân số Việt Nam dùng internet, truy cập trung bình 7 tiếng/ngày. https://www.24h.com.vn, ngày 06/12/2018.
8. Có 13.900 vụ tấn công an ninh mạng vào các hệ thống tại Việt Nam. https://hanoimoi.vn, ngày 12/12/2013.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 34.
Tài liệu tham khảo
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – thời cơ và thách thức đối với Việt Nam (Kỷ yếu cấp Học viện, ngày 10/5/2017). H. NXB Lý luận chính trị, 2017.