Nhận diện nguy cơ và giải pháp cho kiểm soát quyền lực trong phòng, chống tham nhũng chính sách ở các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay

TS. Trần Văn Trung
Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Vấn đề tham nhũng và tham nhũng chính sách đã được Đảng, Nhà nước ta đặt ra và nghiên cứu, tìm cách giải quyết từ lâu. Gần đây, đã có những hành động quyết liệt hơn nhằm ngăn chặn tình trạng này. Nhằm góp thêm tiếng nói về vấn đề phòng, chống tham nhũng, bài viết tập trung vào một khía cạnh cụ thể là nhận diện các nguy cơ dẫn đến tham nhũng và các giải pháp kiểm soát quyền lực của quá trình chính sách trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: Tham nhũng chính sách; nhận diện nguy cơ, phòng; chống tham nhũng; sự nghiệp công lập; kiểm soát quyền lực.

1. Đặt vấn đề

Trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, tham nhũng được hiểu là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để vụ lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị. Tham nhũng chính sách là một trong ba dạng của tham nhũng (tham nhũng vật chất; tham nhũng quyền lực chính trị và tham nhũng chính sách), hiện nay nó còn được hiểu ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Có những cách tiếp cận ở góc độ hoạch định hoặc tổ chức; có những cách tiếp cận ở giai đoạn kiểm tra, giám sát hoặc tiếp cận cả quá trình chính sách.

Trong bài viết, có thể hiểu khái niệm này như sau: tham nhũng chính sách là hiện tượng các chủ thể quyền lực nhà nước, dù vô tình hay cố ý, sử dụng quyền lực được giao để đưa ra các quyết định về chính sách từ khi hoạch định, tổ chức và kiểm soát chính sách, đem lại lợi ích cho một nhóm, một tổ chức, hoặc các cá nhân nào đó và gây thiệt hại cho lợi ích chung của đơn vị, cộng đồng, xã hội.

2. Một số điểm lưu ý nhận diện tham nhũng chính sách

Thứ nhất, nói tới tham nhũng chính sách là nói tới việc sử dụng quyền lực công trong xây dựng, thực thi quy trình chính sách. Quyền lực này do các cá nhân, các chủ thể nắm giữ không phải là thứ quyền lực tự thân, mà là quyền lực được ủy nhiệm bởi một tập thể hoặc được ủy nhiệm trực tiếp bởi người dân thông qua bầu cử trực tiếp. Có thể khẳng định, nếu không nhận được sự ủy nhiệm quyền lực đó, một cá nhân không thể thực hiện hành vi tham nhũng. 

Thứ hai, tham nhũng chính sách thường là nhắc tới tính phi pháp trong hành động thực thi quy trình chính sách. Điều này có nghĩa là, các chủ thể quyền lực lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để mưu lợi riêng, thông qua những hành động trái với quy định của pháp luật (như ra quyết định bổ nhiệm sai quy định, giao dự án không đúng quy trình, thủ tục…).

Thứ ba, tham nhũng chính sách gắn với hành vi trục lợi cá nhân của những người nắm giữ quyền lực trong thực thi quy trình chính sách. Theo ngôn ngữ thông thường, đây là trường hợp các quan chức nhà nước “lợi dụng những khoảng trống, sơ hở của pháp luật” để đưa ra các quyết định đem lại lợi ích cho bản thân, cho các cá nhân, hoặc cho nhóm nào đó.

3. Đặc trưng của đơn vị sự nghiệp công lập

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức năm 2010 đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội thành lập theo quy định pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công và phục vụ quản lý nhà nước.

Đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước đầu tư và xây dựng để vận hành, tùy vào từng loại hình mà Nhà nước có sự hỗ trợ ngân sách ở cấp độ khác nhau. Nghĩa là vừa được sử dụng ngân sách nhà nước, vừa được “tự tạo” kinh phí hoạt động theo quy định pháp luật (tự chủ một phần hay tự chủ toàn bộ).

Mục đích của đơn vị sự nghiệp công lập là cung cấp dịch vụ sự nghiệp trong trong lĩnh vực mà Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng cho Nhân dân hoặc các lĩnh vực mà khu vực phi nhà nước không có khả năng đầu tư, không quan tâm đầu tư.

Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp công lập đang được đổi mới theo hướng tự chủ và thực hiện hạch toán độc lập. Cụ thể: các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, hạn chế tình trạng lạm quyền, vượt quyền, phòng chống tham nhũng. Ngoài ra, đã có quy định về việc thành lập Hội đồng quản lý tại các đơn vị sự nghiệp công lập, tự bảo đảm chi thường xuyên và đầu tư vào các đơn vị sự nghiệp công lập khác trong trường hợp cần.

Về nhân sự, các đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu được tuyển dụng theo vị trí việc làm, theo hợp đồng, quản lý và sử dụng dưới tư cách viên chức. Thành phần rộng, bao gồm hầu hết trong các lĩnh vực xã hội và ở các cấp, các ngành, như: y tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các cấp ở trung ương, địa phương, cả trong và ngoài nước…

4. Nhận diện các nguy cơ tham nhũng ở các đơn vị sự nghiệp công lập

Cán bộ, lãnh đạo các cơ quan nhà nước có quyền ban hành chính sách có thể chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những người có quyền hoạch định chính sách và loại thứ hai là các cán bộ có quyền thẩm định, thông qua chính sách. Tham nhũng chính sách có thể được thể hiện dưới hai hình thức: một là, ban hành một chính sách có lợi cho cá nhân và phe nhóm; hai là, luật hóa các quyền năng không chính đáng để dễ bề nhũng nhiễu.

Hậu quả to lớn của tham nhũng chính sách là điều rất dễ cảm nhận. Tuy nhiên, hành vi tham nhũng chính sách lại không phải là điều dễ nhận biết. Có hai lý do cơ bản do, ban hành chính sách là một công việc mang tính chính trị rất cao và hệ lụy của chính sách là điều rất khó nhận biết ngay từ đầu. Nhưng thực tế ở Việt Nam, đội ngũ chuyên gia phân tích chính sách không nhiều, năng lực phân tích chính sách, năng lực đánh giá tác động của chính sách còn đang thiếu hụt khá nghiêm trọng trong quá trình lập pháp, cũng như trong quá trình ban hành chính sách. Nhận diện các hành vi trong tham nhũng chính sách là cơ sở để giúp các nhà lãnh đạo, các cơ quan tư vấn, xây dựng pháp luật hoạt động hiệu quả.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung, các hành vi tham nhũng chính sách thường được thể hiện dưới các loại hình sau:

Một là, nguy cơ hình thành các “nhóm lợi ích” ngay trong khi thành lập, hoặc khi có sự thay đổi lãnh đạo mới đối với tổ chức đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo đó, những người có chung mục tiêu và muốn gây ảnh hưởng đến các cơ chế chính sách của của cơ quan đơn vị sẽ hình thành nên nhóm lợi ích trong chính các tổ chức có pháp nhân. Về tổ chức, nhóm lợi ích là các tổ chức chính thức, hoạt động một cách công khai. Về tính chất, hoạt động của các nhóm lợi ích “núp” dưới các tổ chức hợp pháp (tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức xã hội) được điều chỉnh bởi các quy định của nhà nước, như luật về hội, luật vận động hành lang,…

Về tổ chức, các cá nhân trong các “nhóm lợi ích” thường liên kết với nhau một cách chính thức hoặc không chính thức. Về tính chất, hoạt động của “nhóm lợi ích” có thể là công khai, nhưng phổ biến hơn là các giao dịch ngầm. Do đó, trên thực tế, các hoạt động của họ ít bị kiểm soát, và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tham nhũng. Hoặc các quyết định nhằm duy trì địa vị độc quyền của các nhóm… Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động vận động chính sách trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện nay hầu như chưa có. Do vậy, trong quá trình tổ chức, thực thi chính sách, khả năng tham nhũng rất dễ xảy ra. Trong thực tiễn nó thường biểu hiện thông qua các hình thức:

(1) Lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành “can thiệp” xây dựng đội ngũ “cán bộ chủ chốt” trong đơn vị theo nguyên tắc “cánh hẩu” thuộc “nhóm lợi ích” của các nhà lãnh đạo, quản lý đơn vị lợi dụng nguyên tắc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy: bí thư chi bộ và thủ trưởng cơ quan phải nhất thể hóa với nhau. Bí thư là thủ trưởng và thủ trưởng phải kiêm bí thư. Nguyên tắc này rất dễ tạo ra tính chuyên quyền độc đoán, lộng quyền trong điều hành, kiểm soát đối với một số lãnh đạo, đảng viên hoặc ban lãnh đạo đơn vị. Thâu tóm điều khiển các chức danh trong đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cơ quan (Đoàn thanh niên, Công Đoàn; thanh tra nhân dân…). Lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ “chỉ đạo”, “sắp xếp” và can thiệp của lãnh đạo, cấp ủy Đảng vào công tác tổ chức cán bộ của các tổ chức chính trị, xã hội thuộc cơ quan một cách áp đặt theo hướng “phe cánh”, như: tuyển dụng, quy hoạch, xét duyệt nhân sự đại hội, cơ cấu, ứng cử, bầu cử…

(2) Khi đã có nhóm lợi ích, lãnh đạo dùng nguyên tắc tập trung dân chủ điều hành cơ quan theo “đúng nguyên tắc” để thông qua tất cả các chủ trương, nghị quyết, quy chế, chính sách, tuyển dụng, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật, sa thải, buộc thôi việc… theo ý muốn của lãnh đạo. Dùng các hình thức áp đảo trong bỏ phiếu để thực hiện các hành vi sai trái trong lãnh đạo quản lý (biểu quyết số đông). Có thể thông qua bất cứ chủ trương nghị quyết nào theo ý của thủ trưởng hoặc cũng có thể không thể thông qua bất cứ chủ trương, nghị quyết nào trái với ý muốn của thủ trưởng hoặc của “nhóm lợi ích”. Đây còn gọi là dùng nguyên tắc tổ chức tham nhũng “đúng nguyên tắc”.

Hai là, nguy cơ một số cán bộ lãnh đạo, nhóm lợi ích “cài cắm” lợi ích cục bộ của mình từ hoạch định đến tổ chức thực thi và kiểm soát chính sách.

Hành vi “cài cắm” lợi ích thông qua từ khi lên ý tưởng, tổ chức soạn thảo các văn bản chính sách đến bố trí người thực hiện và “tạo” cơ chế giám sát theo hình thức “dân chủ giả tạo” là ý đồ của một lãnh đạo, quản lý.

Thực tế cho thấy, quá trình tổ chức chính sách dễ bị ảnh hưởng bởi các lợi ích cục bộ (thường là của cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ soạn thảo chính sách). Dù không hoàn toàn xuất phát từ lợi ích cục bộ, nhưng nhìn chung, các phương án chính sách có thể được thiết kế theo hướng có lợi cho cá nhân lãnh đạo hoặc nhóm lợi ích trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Các lợi ích cục bộ này mang tính thể chế. Sự biến tướng của các lợi ích cục bộ này rất tinh vi và không dễ đấu tranh, do tính chất tập thể của chúng. Nói cách khác, những người có thẩm quyền ban hành chính sách đã đưa ra các quy trình, thủ tục có lợi cho bản thân khi duy trì những đặc quyền về thông tin, sự kiểm soát, hay phân bổ nguồn lực. Quá trình này có thể tạo ra những cơ hội cho tham nhũng.

Thực tiễn trong các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay, các văn bản thường có dấu hiệu “cài cắm” theo kiểu đúng thẩm quyền đã được ban hành để hợp thức hóa, phục vụ, trục lợi cho lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm: thông qua “Quy chế chi tiêu nội bộ”. Kết quả khảo sát tại TP. Hồ Chí Minh năm 2022 khi nghiên cứu về quy chế chi tiêu nội bộ của 12 đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố cho kết quả: hầu hết (chiếm 96%) các quy chế đều có dấu hiệu sai phạm quy định pháp luật từ 10% đến 25% về các quy định liên quan đến chi tiêu. Ví dụ: lẩn tránh khái niệm, đánh tráo khái niệm trong quy chế chi tiêu nội bộ. “Thu nhập tăng thêm” thành “chi phí trách nhiệm” quy định này chỉ có các lãnh đạo mới được hưởng; quy định đấu thầu, chỉ đạo thầu; quy định khen thưởng, tiền thưởng…

Ngoài ra, thông qua các văn bản: tuyển dụng không theo yêu cầu vị trí việc làm, trình độ chuyên môn, chính trị mà các tiêu chí đưa ra phải phù hợp với đối tượng ứng viên của ông A, bà B; các văn bản về quyền lợi của viên chức gắn với các yêu cầu sai pháp luật. Ví dụ, việc tăng lương trước thời hạn của viên chức phải là những người làm việc đủ 5 năm tại cơ quan chủ quản. Đây là những điều không chấp nhận được, sai trái đối với quyền lợi của viên chức được quy định trong Luật Viên chức

Ba là, nguy cơ “bỏ thiếu” chính sách hoặc thiết kế cố tình để lại nhiều “lỗ hổng” trong các chính sách để tạo điều kiện cho tham nhũng.

Trong nhiều trường hợp, tham nhũng có thể xuất hiện do thiếu chính sách hoặc do các “lỗ hổng” cố tình hoặc vô tình không chủ ý của các nhà hoạch định chính sách. Lý do chính là do sự hạn chế về năng lực, do thiếu thông tin hoặc do xử lý thông tin không tốt hoặc do sự “chỉ đạo ngầm” từ các nhà lãnh đạo, quản lý. Khi các chính sách với nhiều “lỗ hổng” được ban hành, là cơ hội cho các “nhóm lợi ích” có thể lợi dụng điều này để tham nhũng.

Cố tình không triển khai kịp thời các văn bản áp dụng pháp luật với cơ quan; không tạo điều kiện hoặc chỉ đạo xây dựng, cố ý kéo dài hoặc không hoàn thiện hệ thống văn bản điều hành cơ quan. Điều hành hoạt động bằng cách “vận dụng” hoặc “áp dụng” theo hướng có lợi cho nhóm lợi ích hoặc lãnh đạo. Kết quả khảo sát về hệ thống các văn bản điều hành cơ bản ở một số đơn vị sự nghiệp công lập tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, hầu hết các đơn vị được khảo sát đều thiếu hoặc có rất nhiều văn bản đã lạc hậu, không còn phù hợp theo pháp luật. Có trên 90% các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn hiện vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ các văn bản điều hành thiết yếu nhất. Trong đó, có tới 70% là các đơn vị thuộc trường học và bệnh viện công lập.

Ngoài ra, việc vận dụng để hợp thức hóa các khoản chi tiêu cho cá nhân và cho “nhóm lợi ích” thông qua các tổ chức đoàn thanh niên; tổ chức công đoàn; các đối tác; các hoạt động đề tài, dự án; các hội nghị, hội thảo… để hợp thức hóa các khoản chi tiêu và giải ngân cho lãnh đạo, cho “đối ngoại” hoặc cho nhóm lợi ích. Hình thức này có dấu hiệu tham nhũng rất lớn trong một số đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay. Theo số liệu nhóm tác giả thu thập được, đã có những đơn vị sự nghiệp công lập đã chi từ 10 – 20 tỷ đồng theo phương thức này hằng năm. Ví dụ: chi cho “đối ngoại” cấp trên thông qua các chuyến công tác, các đề tài, hội thảo…

5. Các nguyên nhân cơ bản hình thành tham nhũng trong các đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ nhất, xuất phát từ yếu tố con người. Đó là đội ngũ cán bộ, viên chức và các nhà lãnh đạo trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập có nhiệm vụ, trách nhiệm xây dựng, tổ chức và kiểm soát chính sách. Cũng giống như những hành vi tham nhũng khác thì tham nhũng chính sách xuất phát từ sự suy thoái về mặt đạo đức, sự thiếu liêm chính, thiếu kiểm soát lòng tham của những người có quyền lực, địa vị, có thẩm quyền xây dựng chính sách, pháp luật. Họ đã vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm mà đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, xã hội, đất nước.

Thứ hai, xuất phát từ đặc trưng về nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, thành phần, cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

(1) Được thành lập bởi nhiều cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội khác nhau theo quy định pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công và phục vụ quản lý nhà nước. Do vậy, khó có thể xây dựng được cơ chế, thể chế hoặc thiết chế chế chung. Khó có những giải pháp áp dụng thống nhất cho các đơn vị sự nghiệp công lập ở các cấp, các khối ngành hoạt động khác nhau.

(2) Đơn vị sự nghiệp công lập là nhóm các cơ quan của Nhà nước, phong phú, đa dạng, có ở mọi thành phần trong hệ thống chính trị, hành chính, kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Khi áp dụng pháp luật, có những điều khoản quy phạm pháp luật có thể áp dụng được với viên chức loại đơn vị sự nghiệp này nhưng không áp dụng được với viên chức đơn vị sự nghiệp khác. Từ đó, dẫn đến những kiểu “vận dụng” của các nhà lãnh đạo, quản lý để tham nhũng.

(3) Đơn vị sự nghiệp công lập đang vận hành dưới những cơ chế “mềm”, vừa áp dụng những quy chế vận hành theo quản lý hành chính nhà nước, vừa áp dụng theo cơ chế tự chủ, tự quản, hạch toán độc lập; vừa hướng một phần hoặc toàn bộ ngân sách nhà nước lại vừa được khai thác các nguồn thu xã hội, kinh doanh… Đây là một thế mạnh nhưng cũng là cơ hội, những góc khuất cho những tham nhũng phát sinh, phát triển. Nếu thiếu cơ chế kiểm soát hoạt động, các chính sách theo kiểu “chế tác” để hợp thức hóa thu, chi điều hành rất dễ thực thi.

 Thứ ba, hiệu quả trong cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập còn hình thức, không thực chất và có tính chất giả tạo. Chất lượng sinh hoạt Đảng và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng theo xu hướng “bình yên”, “thống nhất”, “đoàn kết”… một cách hình thức kém hiệu quả. Công tác chỉ đạo hoạt động của các cấp ủy Đảng tại một số các cơ quan sự nghiệp hầu hết rất hình thức, qua loa, đại khái. Họp cho xong để lên lịch đầy đủ cuộc họp, mọi quyết định đã được lãnh đạo quyết, hoặc có biểu quyết cũng đã có cơ chế “đám đông” thông qua, do vậy rất khó kiểm soát hoạt động lãnh đạo của cấp ủy đảng.

Nghị quyết cấp ủy cũng chỉ để cho có, hầu hết không quan tâm chỉ đạo thực hiện. Mọi ý kiến, kiến nghị đều tồn tại dai dẳng không có ai chịu trách nhiệm hoặc không có thời gian giới hạn giải quyết. Chỉ đạo, điều hành, vận động để thông qua một quyết định sai lầm, vi phạm hoặc xóa bỏ mọi khuyết điểm tồn tại của cá nhân hoặc tổ chức để đổi lấy một danh hiệu “cấp ủy đảng trong sạch, vững mạnh” nhằm ngụy trang tham nhũng và năng lực yếu kém trong điều hành.

Thứ tư, không tổ chức các thiết chế hoặc triển khai các hoạt động về thực hành dân chủ cơ sở, thiếu sự giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức quần chung tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

Khi khảo sát tại TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phía Nam, hiện có tới 28% các đơn vị sự nghiệp công lập được khảo sát hiện chưa có Ban Thanh tra nhân dân, 32% các đơn vị khảo sát chưa triển khai các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở. Có trên 60% cán bộ, viên chức được hỏi không biết gì về pháp luật dân chủ cơ sở.

Hiệu quả hoạt động công khai, minh bạch, giám sát, phản biện tại các đơn vị sự nghiệp công lập không cao, còn mang tính hình thức, chiếu lệ, một chiều và thiếu các tài phán thực hiện. Tỷ lệ thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết kiến nghị được tổ chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập là rất thập chỉ chiếm dưới 10%. Một năm các cơ quan sự nghiệp cũng chỉ tổ chức đại hội viên chức 01 lần nhưng rất ít dành thời lượng cho công tác công khai, giám sát, phản biện hoạt động của lãnh đạo quản lý. Có chăng chỉ là việc bầu ban thanh tra nhân dân với hình thức cho xong.

6. Một số giải pháp

Một là, xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm soát công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Kiểm soát sự thiết lập tổ chức, sự thành lập ban chấp hành đảng bộ, chi ủy chi bộ, ban lãnh đạo điều hành các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội và các ban, bộ phận trong cơ quan theo hướng công khai, dân chủ và mở rộng có sự tham gia của quần chúng (cán bộ, viên chức) trong công tác bầu chọn, thăm dò ý kiến khi quyết định các vị trí cán bộ lãnh đạo. Kiểm soát trong công tác lãnh đạo, điều hành chuyên môn của các cấp ủy Đảng từ trong quá trình ban hành các nghị quyết chỉ đạo hoạt động đến các quyết định kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân phụ trách.

Hai là, thiết lập cơ chế và đẩy mạnh môi trường dân chủ cơ sở, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ tổ chức, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, viên chức trong các cơ quan. Thể chế hóa các cơ chế công khai, minh bạch, đối thoại, giải trình… trong hoạt động thành các quy định bắt buộc của các cơ quan đơn vị. Hoàn thiện hệ thống tài phán, xử phạt trong vi phạm thực hiện các quyền về dân chủ cơ sở đối vơi các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây dựng môi trường tổ chức hoạt động dân chủ cơ sở ở các đơn vị trở thành những đặc trưng về văn hóa tổ chức, quản lý trong mỗi cơ quan.

Ba là, kiểm soát chặt chẽ hệ thống các văn bản dưới luật trong điều hành hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập từ khâu soạn thảo, tổ chức thực thi đến kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát quá trình xây dựng, bổ sung, sửa đổi về quy chế chi tiêu nội bộ hàng năm của các cơ quan đơn vị. Các văn bản liên quan đến tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Cần có tài phán xử phạt liên quan đến trách nhiệm lãnh đạo, đảng viên, cấp ủy trong quản lý điều hành về hoạt động ban hành và kiểm soát chính sách trong các cơ quan (thu hồi, bồi hoàn, công khai xin lỗi, kỷ luật, cách chức…). Đẩy mạnh việc kiểm soát và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trái luật; những chính sách, văn bản pháp luật chứa những “lỗ hổng” hoặc bị “cài cắm” lợi ích nhóm.

Bốn là, thành lập các thiết chế tổ chức kiểm soát chuyên nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trong phòng, chống tham nhũng. Thành lập các cơ quan kiểm soát chuyên ngành hoặc cơ quan liên ngành, cơ quan của Đảng và cơ quan chuyên môn cùng các cơ chế hoạt động hiệu quả. Cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát hoạt động chống tham nhũng trong các đơn vị sự nghiệp công lập.

Năm là, tăng cường các quy định pháp luật về quy định trách nhiệm đối với những người đứng đầu trong các cơ quan Đảng, chính quyền tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Thay đổi các cơ chế bầu, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng dân chủ, tự chủ có kiểm soát và tự chịu trách nhiệm cao. Xây dựng các cơ chế kiểm soát chặt chẽ hoạt động của lãnh đạo, ban lãnh đạo trong mọi mặt công tác theo hướng tự chủ, tự quyết, công khai, dân chủ tự chịu trách nhiệm.

Sáu là, thể chế hóa các hoạt động thông tin, giải trình các hoạt động của cơ quan, đơn vị thông qua các trang mạng mang tính hợp pháp, định hướng, công khai. Tăng cường tổ chức tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin nội bộ, trả lời phúc đáp các thắc mắc, kiến nghị của cán bộ, viên chức và người lao động kịp thời, hiệu quả thông qua các trang mạng nội bộ và trang mạng xã hội. Xây dựng quy chế điều hành hoạt động theo chế độ số hóa (Internet, Email, Zalo, hay Faceboker…).

Tài liệu tham khảo:
1. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam. https://thanhtra.nghean.gov.vn/phong-chong-tham-nhung/phong-chong-tham-nhung-trong-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-o-viet-nam-485133.
2. Nguyễn Phú Trọng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2015, tr. 42.
3. Nguyễn Quốc Văn. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam. H. NXB Khoa học xã hội, 2021, tr. 122.
4. Tham nhũng chính sách, hậu quả lớn trách nhiệm nhẹ. https://danviet.vn/tham-nhung-chinh-sach-hau-qua-lon-trach-nhiem-nhe-7777639878.htm.
5. Phòng, chống tham nhũng và kiểm soát vận động chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phong-chong-tham-nhung-va-kiem-soat-van-dong-chinh-sach-trong-quy-trinh-xay-dung-phap-luat.
6. Một số giải pháp hạn chế tham nhũng chính sách và lợi ích nhóm. https://thanhtra.langson.gov.vn/vi/mot-so-giai-phap-han-che-tham-nhung-chinh-sach-va-loi-ich-nhom.