Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh 2023 và những lĩnh vực cần ưu tiên cải thiện

ThS. Nguyễn Thanh Giang
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Từ năm 2020 đến năm 2022, Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều văn bản nhằm thúc đẩy cung cấp thông tin chính sách, pháp luật và dịch vụ công trên môi trường mạng. Tất cả những nỗ lực này được kỳ vọng sẽ làm giảm sự tùy tiện, quan liêu trong giải quyết thủ tục hành chính, cải thiện tính công khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp.

Từ khoá: PAPI 2023, hiệu quả quản trị, hành chính công cấp tỉnh, chính sách, pháp luật, dịch vụ.

1. Năm 2023 số lượng người tiếp cận và sử dụng internet tại nhà tiếp tục tăng lên

Kết quả khảo sát PAPI cho thấy, tỷ lệ người dùng internet tại nhà tăng đáng kể từ 75% năm 2022 lên 80% năm 2023, cao hơn gấp đôi so với tỷ lệ 31% vào năm 2016. Tuy nhiên, đang tồn tại những “khoảng cách số” giữa các nhóm dân cư khác nhau về giới tính, khu vực sinh sống, dân tộc hoặc tình trạng hộ khẩu trong tiếp cận, sử dụng internet, máy vi tính cá nhân và điện thoại thông minh. Điều này làm ảnh hưởng tới tính bình đẳng trong tham gia quản trị điện tử của tất cả mọi người dân.

Về việc sử dụng internet tại nhà, mặc dù nam giới và phụ nữ có điều kiện sử dụng internet ngày càng tăng, nhưng tỷ lệ nam giới có điều kiện sử dụng internet cao hơn từ 5%-10% so với nữ giới qua các năm từ 2016 đến 2023. Tương tự, người đồng bào dân tộc thiểu số cũng có mức độ tiếp cận internet thấp hơn từ 10%-20% so với người Kinh qua các năm.

Về việc sở hữu máy vi tính cá nhân, kết quả khảo sát từ 2018 đến 2023 cho thấy có khoảng cách lớn giữa người thành thị và người nông thôn, giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số và giữa người thường trú và người tạm trú và khoảng cách này lớn hơn so với khoảng cách trong tiếp cận và sử dụng internet tại nhà. Đặc biệt, ở các tỉnh, thành phố tiếp nhận nhập cư tạm thời nhiều nhất, tỷ lệ người thường trú có máy vi tính cá nhân cao hơn 13% so với tỷ lệ này ở người tạm trú, theo kết quả khảo sát năm 2023.

Với 90,8% số người trả lời cho biết họ có điện thoại thông minh theo kết quả khảo sát PAPI 2023, việc phân tích khoảng cách trong sở hữu điện thoại thông minh theo bốn nhóm nêu trên có ý nghĩa chính sách quan trọng. Kết quả khảo sát PAPI thường niên giai đoạn 2018-2023 cho thấy, trong số ba phương tiện kết nối tin tức trực tuyến và dịch vụ công trực tuyến (gồm kết nối internet tại nhà, máy vi tính cá nhân và điện thoại thông minh), mức độ sở hữu điện thoại thông minh có xu hướng phân bổ đồng đều nhất trong mỗi nhóm được phân tích, và khoảng cách sở hữu điện thoại thông minh giữa các nhóm có xu hướng thu hẹp vào năm 2023.

Có sự khác biệt lớn nhất là giữa người thường trú (98,84% cho biết họ sở hữu điện thoại thông minh) so với người tạm trú (91,51% sở hữu điện thoại thông minh), song cả hai tỷ lệ đều ở mức cao. Tiếp theo là khoảng cách giữa nhóm người Kinh (92,96%) và các nhóm người dân tộc thiểu số (86,88%). Với độ phủ rộng trong các tầng lớp dân cư, điện thoại thông minh cần được tận dụng để thúc đẩy việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ công trực tuyến rộng khắp trong xã hội.

Mặc dù số người sử dụng mạng internet ngày một tăng, tốc độ phát triển dịch vụ công trực tuyến nhằm hỗ trợ công dân thực hiện thủ tục hành chính công mọi lúc, mọi nơi còn rất chậm. Từ năm 2020 đến 2023, tỷ lệ người dùng các cổng dịch vụ công trực tuyến cho biết họ tìm được thông tin và biểu mẫu để xin chứng thực, xác nhận của chính quyền địa phương và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xu hướng tăng dần. Tuy nhiên, số người đã thành công trong việc làm thủ tục hành chính thông qua các cổng dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh vẫn còn rất thấp.

Chỉ có khoảng 12% những người nộp đơn xin chứng thực, xác nhận của chính quyền địa phương có thể nộp trực tuyến; tỷ lệ này với hồ sơ xin cấp mới/cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là khoảng 5%. Dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân xin cấp lý lịch tư pháp (do cơ quan tư pháp cấp tỉnh xử lý) là điểm sáng, với 28,7% số người đã làm thủ tục trực tuyến có thể nộp thành công qua cổng dịch vụ công cấp tỉnh. Nhìn chung, người dân thành thị có trải nghiệm tích cực hơn người dân nông thôn khi sử dụng cổng dịch vụ công cấp tỉnh. Tỷ lệ người dùng cổng dịch vụ công cấp tỉnh tại 5 thành phố trực thuộc trung ương (gồm Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh) cộng lại cao hơn tỷ lệ trung bình ở mỗi vùng kinh tế. Tuy vậy, phần lớn người dùng dịch vụ công trực tuyến ở 5 thành phố trực thuộc trung ương vẫn phải đích thân đến bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để trực tiếp hoàn thiện thủ tục hành chính.

Một kết quả đáng khích lệ là số lượng công dân truy cập và thiết lập hồ sơ người dùng trên Cổng dịch vụ công Quốc gia ngày càng tăng. Năm 2023, khoảng 8,3% số người được hỏi qua khảo sát PAPI 2023 đã truy cập Cổng dịch vụ công Quốc gia, tăng gần gấp đôi so với tỷ lệ đã ghi nhận từ khảo sát năm 2022. Thủ tục xin cấp mới hoặc cấp đổi hộ chiếu phổ thông là một trong số ít thủ tục hành chính công được người dân thực hiện nhiều nhất trên Cổng dịch vụ công Quốc gia. Tốc độ gia tăng tỷ lệ người dùng Cổng dịch vụ công Quốc gia hai năm vừa qua hứa hẹn nhu cầu thực hiện thủ tục hành chính công trên môi trường mạng của người dân sẽ ngày càng lớn một khi các dịch vụ hành chính công trực tuyến dễ thực hiện hơn và hiệu quả hơn.

2. Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh 2023 và những lĩnh vực cần ưu tiên cải thiện trong thời gian tới

(1) Tham gia của người dân ở cấp cơ sở:

Tham gia tích cực và chủ động vào đời sống chính trị, kinh tế – xã hội của đất nước là quyền hiến định của mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là những người từ 18 tuổi trở lên. Việc tham gia đó có ý nghĩa quan trọng để người dân phát huy quyền làm chủ, góp phần cải thiện hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương.

Tất cả các tỉnh/thành phố chỉ đạt từ 3,69 đến 5,91 điểm trên thang đo từ 1-10 điểm, hầu như ít biến chuyển so với kết quả của năm 2021. So với kết quả năm 2021, 24 tỉnh, thành phố có sự cải thiện đáng kể trong năm 2023 và chỉ có 8 tỉnh, thành phố có số điểm sụt giảm đáng kể. Điểm số của 27 tỉnh/thành phố còn lại không thay đổi đáng kể. Tất cả các tỉnh, thành phố cần nỗ lực nhiều hơn trong việc nâng cao hiểu biết của người dân về chính sách, pháp luật quan trọng liên quan đến công dân, bảo đảm người dân tham gia chủ động và tích cực vào công tác bầu cử trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố, công tác ra quyết định cũng như giám sát các dự án công trình công cộng ở địa phương.

Đa số người dân ở hầu hết các tỉnh, thành phố chưa biết đến những văn bản pháp luật quan trọng, như: Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Năm 2023, điểm nội dung thành phần “Tri thức công dân” chỉ đạt từ 0,72-1,32 điểm trên thang đo từ 0,25-2,5 điểm. Phân tích kết quả khảo sát câu hỏi thêm năm 2023 về việc phổ biến Luật Thực hiện dân chủ cơ sở năm 2022 cho thấy, tỷ lệ người trả lời biết đến luật này dao động từ 14,23% tới 45,97% trên 61 tỉnh, thành phố.

Hiệu quả huy động sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định và giám sát việc thực hiện các dự án công trình công cộng ở địa phương có chiều hướng suy giảm vào năm 2023 so với năm 2021. Tỷ lệ người trả lời cho biết họ đã tham gia đóng góp ý kiến cho việc xây mới/tu sửa công trình công cộng dao động từ 15,14% đến 63,16% trên toàn quốc. Tỷ lệ này chỉ đạt dưới 50% ở 45 tỉnh/thành phố, tăng tới 10 tỉnh, thành phố có kết quả này so với kết quả năm 2021. Bên cạnh đó, nhiều dự án xây mới hoặc tu sửa công trình công cộng ở nhiều địa phương chưa có sự tham gia giám sát đầy đủ của người dân, tương tự kết quả năm 2021. Dưới 50% số người trả lời ở 58 tỉnh/thành phố cho biết Ban giám sát đầu tư của cộng đồng được tổ chức để giám sát các dự án công trình công cộng ở xã/phường/thị trấn nơi họ cư trú trong năm 2023. Số lượng địa phương với tỷ lệ thấp như vậy tiếp tục gia tăng so với hai năm 2021 và 2022.

(2) Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định ở địa phương:

Chỉ số PAPI đo lường hiệu quả của chính quyền các cấp trong việc công khai hóa, minh bạch hóa thông tin nhằm đáp ứng “quyền được biết” của người dân về những chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và sinh kế của họ. Chỉ số nội dung “Công khai, minh bạch” gồm bốn chỉ số thành phần, gồm: tiếp cận thông tin; công khai, minh bạch danh sách hộ nghèo; công khai, minh bạch ngân sách cấp xã và công khai, minh bạch kế hoạch sử dụng đất và bảng giá đất ở địa phương.

Tất cả các tỉnh/thành phố chỉ đạt từ 4,31 đến 5,88 điểm trên thang đo từ 1-10 điểm, với khoảng điểm giảm đáng kể so với năm 2021. Năm 2023, 12 tỉnh, thành phố đạt điểm cao hơn đáng kể ở kết quả Chỉ số nội dung 2, song cũng có tới 23 tỉnh, thành phố có mức điểm giảm đáng kể và 24 tỉnh, thành phố không có nhiều thay đổi so với kết quả năm 2021. Tương tự kết quả những năm trước, các tỉnh, thành phố trong nhóm đạt điểm cao vẫn có xu hướng tập trung ở phía Bắc, với 5 tỉnh, thành phố thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, 4 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và 3 tỉnh thuộc vùng Trung du và Miền núi phía Bắc. Trong khi đó, trong số 16 tỉnh, thành phố đạt điểm thấp nhất, có tới 8 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 3 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và 3 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đông Nam Bộ.

Tiếp cận thông tin chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn là chỉ số nội dung đạt điểm thấp nhất trong bốn chỉ số nội dung về công khai, minh bạch trong việc ra quyết định ở địa phương. Điểm của các tỉnh, thành phố vẫn ở mức thấp, dao động từ 0,7 đến 1,05 điểm trên thang đo từ 0,25-2,5 điểm. Điểm chỉ số nội dung “Công khai danh sách hộ nghèo” đạt từ 1,03 đến 1,53 điểm, còn điểm chỉ số nội dung “Công khai thu, chi ngân sách”; và “Công khai kế hoạch sử dụng đất, bảng giá đất” đạt khoảng điểm thấp hơn, tương ứng từ 1,03-1,53 điểm và 1,06-1,52 điểm.

Việc tiếp cận thông tin về kế hoạch sử dụng đất thường niên của người dân vẫn còn rất hạn chế ở tất cả các tỉnh/thành phố. Tỷ lệ người dân được biết đến kế hoạch sử dụng đất năm 2023 ở địa phương dao động từ 6% đến 31% ở 59 tỉnh, thành phố có số liệu so sánh được với năm 2021. Trong đó, chỉ có 14 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ cao hơn 20%. Một thông tin đất đai quan trọng nữa đối với người dân là bảng giá đất do chính quyền cấp tỉnh ban hành; song tỷ lệ người trả lời biết cần tới đâu để tìm hiểu bảng giá đất chính thức của chính quyền địa phương dao động từ 17% đến 66% ở 61 tỉnh, thành phố trong năm 2023. Khi so sánh với kết quả năm 2021, 23 tỉnh, thành phố có tỷ lệ người trả lời biết nơi tìm hiểu bảng giá đất cao hơn đáng kể từ 5% trở lên.

(3) Trách nhiệm giải trình với người dân:

Chỉ số nội dung này gồm ba nội dung thành phần: mức độ và hiệu quả tương tác với chính quyền địa phương; giải đáp khiếu nại, tố cáo, khúc mắc của người dân và tiếp cận dịch vụ tư pháp. Hai nội dung thành phần đầu đo lường hiệu quả của các cuộc tiếp xúc công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Các chỉ báo ở nội dung thành phần thứ ba về “Tiếp cận dịch vụ tư pháp” cho biết mức độ tin tưởng của người dân đối với tòa án và cơ quan tư pháp địa phương, cũng như việc tiếp cận tòa án địa phương hoặc các cơ chế phi tòa án khi người dân cần giải quyết các tranh chấp dân sự.

Tất cả các tỉnh/thành phố đều đạt dưới 4,66 điểm trên thang đo từ 1-10 điểm. Nhìn chung, không có sự tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình với người dân qua hai năm ở 44 tỉnh/thành phố trong năm 2023. Chỉ có 5 tỉnh (gồm Cao Bằng, Điện Biên, Lai Châu, Sóc Trăng và Sơn La) đạt một số tiến bộ trong năm 2023 so với kết quả năm 2021. Trong khi đó, điểm số của 10 tỉnh (gồm Bến Tre, Cà Mau, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Dương, Hải Phòng, Hậu Giang, Long An, Quảng Nam và Thanh Hóa) có mức sụt giảm hơn 5% điểm so với kết quả năm 2021.

Hiệu quả tương tác của chính quyền với người dân vẫn ở mức thấp, thể hiện qua mức điểm nội dung thành phần “Mức độ và hiệu quả tương tác với chính quyền địa phương” của các tỉnh, thành phố dao động từ 1,65 đến 2,24 điểm trên thang từ 0,33-3,34 điểm. Trong số bốn vị trí được hỏi (gồm trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố, cán bộ/công chức Ủy ban nhân dân, cán bộ Hội đồng nhân dân và cán bộ đoàn thể cấp xã), trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố tiếp tục là kênh thường trực được người dân tin tưởng lựa chọn nhiều nhất khi có sự vụ cần giải quyết trong năm 2023. Tuy nhiên, mức độ tin tưởng này cũng giảm ở 44 tỉnh, thành phố so với năm 2021. Khi có khúc mắc, người dân có xu hướng tiếp cận cán bộ, công chức Ủy ban nhân dân xã/phường/thị trấn hơn đại biểu dân cử ở Hội đồng nhân dân xã/phường/thị trấn, tương tự với kết quả khảo sát những năm trước. Khoảng cách này rất rõ nét ở tất cả các tỉnh, thành phố.

Các tỉnh, thành phố đạt điểm thấp nhất ở nội dung về xử lý khiếu nại, tố cáo và đề xuất của công dân. Trung bình toàn quốc có gần 50% người trả lời cho biết họ đã gửi đề xuất, khuyến nghị, tố giác tới chính quyền địa phương; tuy nhiên chưa đến một nửa trong số đó hài lòng với phúc đáp họ nhận được. Những địa phương nơi có hơn hai phần ba số người đã gửi đơn thư cho biết họ hài lòng với phúc đáp của chính quyền đó là Quảng Bình và Quảng Trị. Trong khi đó, những người đã gửi đơn thư ở An Giang, Hải Phòng, Long An, Tiền Giang và Trà Vinh ít hài lòng nhất với kết quả nhận được. Bên cạnh đó, các cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự phi tòa án chưa được người dân tin tưởng ở tất cả các tỉnh, thành phố, mặc dù đây là kênh hỗ trợ giải quyết tranh chấp từ sớm trước khi khởi kiện ra tòa án. Tương tự với phát hiện nghiên cứu những năm trước, tỷ lệ người trả lời cho biết họ sẽ giải quyết tranh chấp dân sự ở tòa án địa phương cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ lựa chọn các thiết chế phi tòa án, ví dụ như qua các tổ hòa giải. Tuy vậy, ở các tỉnh Hậu Giang, Quảng Bình, Đồng Tháp, Long An và Trà Vinh, tỷ lệ người trả lời tin tưởng vào các thiết chế phi tòa án là 20%, trong khi tỷ lệ tin tưởng vào tòa án ở những tỉnh này dao động từ 46% đến 57%.

(4) Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công:

Chỉ số nội dung 4 gồm bốn nội dung thành phần: kiểm soát tham nhũng trong chính quyền địa phương, kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công, công bằng trong tuyển dụng nhân lực vào khu vực công và quyết tâm chống tham nhũng của chính quyền địa phương. Chỉ số nội dung này đo lường cảm nhận và trải nghiệm của người dân về hiệu quả phòng, chống tham nhũng của các cấp chính quyền qua bốn nội dung thành phần. Chỉ số cũng phản ánh mức độ chịu đựng tham nhũng của người dân cũng như quyết tâm giảm thiểu tham nhũng của chính quyền và người dân.

Điểm số của tất cả các tỉnh/thành phố dao động từ 5,86 đến 8,15 trên thang đo từ 1-10 điểm. Khác với kết quả những năm trước, kết quả năm 2023 cho thấy, 5 tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và 5 tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tên trong nhóm đạt điểm cao nhất ở Chỉ số nội dung 4. Trong khi đó, 4 trong 5 tỉnh vùng Tây Nguyên (trừ tỉnh Đắk Lắk thuộc nhóm trung bình – thấp) và 4 trong 11 tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng gia nhập nhóm đạt điểm thấp nhất.

Nội dung thành phần “Công bằng trong tuyển dụng nhân lực vào khu vực công” vẫn đạt mức điểm thấp nhất trong bốn nội dung thành phần, với điểm số của các tỉnh, thành phố dao động từ 0,95-1,71 điểm trên thang đo từ 0,25-2,5 điểm. Tương tự kết quả của những năm trước, hiện trạng “chung chi” để có việc làm trong khu vực nhà nước vẫn khá phổ biến ở tất cả các tỉnh/thành phố, không kể tỉnh giàu hay tỉnh nghèo. Chẳng hạn, 3 tỉnh đạt điểm thấp nhất là Bình Phước và Đắk Nông (hai địa phương còn nghèo) và Hải Phòng (địa phương có điều kiện kinh tế). Bên cạnh đó, mối quan hệ thân quen vẫn quan trọng khi muốn xin vào làm việc ở 5 vị trí công chức, viên chức cấp xã/phường/thị trấn (gồm công chức địa chính, công chức tư pháp, công an cấp xã, giáo viên tiểu học công lập, nhân viên văn phòng Ủy ban nhân dân xã/phường) ở tất cả các tỉnh, thành phố, đặc biệt là ở hai tỉnh Gia Lai và Hà Nam.

Việc phải đưa “lót tay” khi làm thủ tục cấp mới hoặc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn là một tập quán phổ biến ở tất cả các tỉnh, thành phố. Tỷ lệ người làm thủ tục hành chính xin cấp mới hoặc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã phải chi “lót tay” dao động từ 19% đến 81% ở 61 tỉnh, thành phố, trong đó Tây Ninh là địa phương có tỷ lệ thấp nhất và Lâm Đồng là địa phương có tỷ lệ cao nhất năm 2023. Điều đáng khích lệ là tỷ lệ người phải chung chi khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã giảm ở 34 tỉnh, thành phố. Trong đó, ở 9 địa phương (Cà Mau, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Tĩnh, Hậu Giang, Hưng Yên, Sóc Trăng, Tây Ninh và Tuyên Quang) tỷ lệ này đã giảm trên 20% so với 2021. Song, tỷ lệ phải chung chi khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng tăng trên 20% ở 4 tỉnh, thành phố (Đà Nẵng, Hòa Bình, Lâm Đồng và Quảng Trị) sau 3 năm.

Việc phải đưa “lót tay” để được chăm sóc y tế tốt hơn cũng vẫn còn phổ biến ở các tỉnh, thành phố. Năm 2023, tỷ lệ người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện công tuyến huyện cho biết họ đã phải trả chi phí ngoài quy định để được chăm sóc tốt hơn dao động từ 40% đến 80% ở 40 tỉnh/thành phố. Tỷ lệ này ở mức thấp nhất ở Bến Tre, Đà Nẵng và Kon Tum, song vẫn dao động trong khoảng 20-30%. So với năm 2021, tỷ lệ này thấp hơn ở 32 tỉnh/thành phố, nhất là ở Bắc Kạn, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Định, Gia Lai, Ninh Bình và Thái Bình, nơi tỷ lệ “chung chi” khi đi khám, chữa bệnh tại bệnh viện tuyến huyện giảm từ 20% trở lên.

(5) Thủ tục hành chính công:

Chỉ số nội dung này đo lường chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công ở những lĩnh vực cần thiết nhất cho đời sống của người dân, bao gồm: dịch vụ chứng thực, xác nhận của chính quyền cơ sở; dịch vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; và dịch vụ hành chính công cấp xã/phường. Qua các chỉ tiêu đánh giá, các cấp chính quyền có thể đánh giá mức độ chuyên nghiệp và khả năng đáp ứng yêu cầu của người dân đối với dịch vụ hành chính công.

Điểm số của các tỉnh, thành phố năm 2023 dao động từ 6,68 điểm đến 7,64 điểm trên thang đo từ 1-10 điểm, thấp hơn so với khoảng điểm năm 2021. So với kết quả năm 2021, 5 tỉnh, thành phố có cải thiện đáng kể, trong đó Bà Rịa Vũng Tàu và Tiền Giang đạt mức gia tăng về điểm tương ứng là 10,4% và 9,6%. Tuy nhiên, có tới 49 tỉnh/thành phố không có mức thay đổi nào và 4 tỉnh (gồm Hải Dương, Hải Phòng, Vĩnh Phúc và Thừa Thiên-Huế) có mức suy giảm về điểm trên 5% sau 3 năm.

Dịch vụ cấp mới/cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn nhiêu khê, khó khăn hơn so với dịch vụ chứng thực, xác nhận của chính quyền và các thủ tục hành chính do cấp xã thực hiện. Điểm thành phần cho dịch vụ cấp mới/cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các tỉnh, thành phố dao động từ 1,98 đến 2,57 điểm trên thang từ 0,33-3,34 điểm, với khoảng rộng và thấp hơn so với hai dịch vụ hành chính công còn lại. Những người đã làm thủ tục ở các tỉnh/thành phố có đánh giá khác nhau ở bốn tiêu chí, đặc biệt là tiêu chí “trả kết quả đúng lịch hẹn”. Riêng ở Cao Bằng, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Bình và Vĩnh Long, người dân đã thực hiện xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đánh giá thấp hơn ở cả bốn tiêu chí về dịch vụ hành chính của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở cấp huyện. Bạc Liêu, Hưng Yên, Ninh Thuận, Trà Vinh và Thừa Thiên-Huế được đánh giá cao nhất ở tiêu chí này, song điểm của cả 5 địa phương vẫn khá xa so với điểm hoàn hảo. Trễ hẹn trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vấn đề nổi cộm nhất ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Điều đáng khích lệ là ở 38 tỉnh, thành phố, người dân đã làm thủ tục xin cấp mới/cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2023 cho biết họ ít phải đi qua nhiều cửa, gặp nhiều người hơn so với năm 2021.

Dịch vụ chứng thực, xác nhận của chính quyền địa phương từ cấp tỉnh đến cấp xã được đánh giá cao ở tất cả các tỉnh/thành phố, với số điểm dao động từ 3,56 đến 4 điểm trên thang điểm từ 0-4. Qua ba năm 2021-2023, dịch vụ này ở 34 tỉnh, thành phố được đánh giá cao hơn, nhất là ở Bà Rịa Vũng Tàu (tăng 0,62 điểm so với điểm của tỉnh năm 2021).

Dịch vụ hành chính công cấp xã được đánh giá khá cao. Phần lớn những người thực hiện các thủ tục xác nhận nhân thân hoặc thủ tục hành chính do cấp xã xử lý có trải nghiệm khá tốt với dịch vụ này, với điểm số của các tỉnh, thành phố đạt từ 2,28-2,59 điểm trên thang đo từ 0,33-3,34 điểm, tương tự với kết quả năm 2021. Tuy nhiên, các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng và Phú Yên chưa đạt được mức điểm cao từ người dùng dịch vụ hành chính công cấp xã. Thiếu niêm yết công khai phí và lệ phí ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả là vấn đề phổ biến ở cấp xã của tất cả các tỉnh, thành phố.

(6) Cung ứng dịch vụ công:

Chỉ số nội dung này đo lường mức độ hiệu quả cung ứng bốn dịch vụ công căn bản cho người dân, gồm: y tế công lập, giáo dục tiểu học công lập, cơ sở hạ tầng căn bản và an ninh, trật tự tại địa bàn khu dân cư. Qua đó, người dân đánh giá mức độ thuận tiện khi sử dụng dịch vụ công, chất lượng và mức độ sẵn có của các dịch vụ công căn bản từ cấp xã/phường, quận/huyện đến tỉnh/thành phố dựa trên trải nghiệm thực tiễn của bản thân và gia đình họ.

Điểm số của các tỉnh, thành phố năm 2023 dao động từ 6,76 đến 8,30 điểm trên thang đo từ 1-10 điểm, thấp hơn so với khoảng điểm năm 2021. Các tỉnh/thành phố trong nhóm “cao” ở chỉ số nội dung 6 chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng (7 trong số 11 tỉnh, thành phố) và hai vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (3 tỉnh) và Đồng bằng sông Cửu Long (3 tỉnh). Tuy nhiên, cũng có tới 7 tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long cùng với 4 tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc thuộc về nhóm “thấp”. Điện Biên là tỉnh duy nhất có mức gia tăng đáng kể với điểm số tăng 9% so với năm 2021. Trong khi đó, 17 tỉnh, thành phố thành phố khác có mức sụt giảm đáng kể. Có tới 41 tỉnh/thành phố không có sự thay đổi đáng kể nào qua 3 năm.

Trong số bốn nội dung thành phần cấu thành Chỉ số nội dung 6, nội dung thành phần “Giáo dục tiểu học công lập” có mức điểm dao động lớn nhất, với khoảng điểm từ 1,02 đến 2,21 điểm trên thang đo từ 0,25-2,5 điểm. Nhìn vào các chỉ tiêu đánh giá của người dân về chất lượng dịch vụ giáo dục tiểu học, trong số 8 tiêu chí, hiện tượng giáo viên ưu ái học sinh tham gia các lớp học thêm vẫn còn tồn tại, nhất là ở các tỉnh Đắk Lắk, Hải Phòng, Phú Yên, Quảng Ngãi và Thái Bình. Chỉ tiêu thứ hai cần sự quan tâm của ngành giáo dục ở tất cả các tỉnh, thành phố, đặc biệt là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng và Thái Bình, đó là sĩ số lớp học không đạt chuẩn dưới 36 học sinh theo chuẩn quốc gia.

Bệnh viện công tuyến huyện, quận, thành phố ở tất cả các tỉnh/thành phố cần cải thiện ở tất cả 10 tiêu chí đánh giá trong PAPI. Đặc biệt, người sử dụng dịch vụ ở Cà Mau, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho điểm thấp hơn so với ở các tỉnh/thành phố khác. Ở những tỉnh được đánh giá cao hơn như Hà Tĩnh, Hậu Giang và Hòa Bình, người sử dụng dịch vụ bệnh viện tuyến huyện vẫn phàn nàn về việc phải dùng chung giường bệnh, nhà vệ sinh không sạch sẽ, thời gian chờ đợi còn dài và hiện tượng nhân viên y tế gợi ý đến nhà thuốc tư nhân để mua thuốc.

Điều kiện đường sá gần nhà dân có mức độ khác biệt lớn giữa các tỉnh, thành phố có chênh lệch về điều kiện kinh tế. Các tỉnh, thành phố như Bắc Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh có điều kiện đường sá tốt hơn (chủ yếu là đường trải nhựa, đường bê tông), trong khi ở các tỉnh còn nghèo như Cao Bằng, Đắk Nông, Điện Biên, Ninh Thuận và Quảng Ngãi còn nhiều đường đất và đường trải sỏi, đá. Tương tự, việc tổ chức thu gom rác thải được thực hiện thường xuyên hơn ở các tỉnh, thành phố có tỉ lệ đô thị hóa cao. Tần suất thu gom rác thải một lần/tuần được thực hiện ở 14 tỉnh, thành phố (ví dụ: Bắc Ninh, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng và Vĩnh Phúc), trong khi tần suất thưa hơn nhiều (một lần/năm hoặc một lần/tháng) thường thấy hơn ở 8 tỉnh, thành phố (ví dụ: Bắc Kạn, Bình Phước, Điện Biên, Hà Giang, Kon Tum, Quảng Ngãi và Yên Bái).

So với kết quả năm 2021, tình hình an ninh, trật tự địa bàn khu dân cư có xu hướng sụt giảm ở 36 tỉnh, thành phố. Tỷ lệ người trả lời cho biết họ là nạn nhân của một trong bốn loại hình tội phạm an ninh, trật tự (gồm đột nhập vào nhà, cướp giật, mất trộm hoặc bị trộm hành hung) tăng đặc biệt ở 5 tỉnh Bình Thuận, Hậu Giang, Lai Châu, Lâm Đồng và Vĩnh Phúc.

(7) Quản trị môi trường:

Chỉ số nội dung này phản ánh ý kiến đánh giá của người dân về chất lượng không khí và chất lượng nguồn nước sinh hoạt nơi cư trú, cũng như sự nghiêm túc của chính quyền và doanh nghiệp đầu tư ở địa phương trong bảo vệ môi trường. Những chỉ tiêu đánh giá này giúp các cấp chính quyền hiểu rõ hơn mối quan ngại về vấn đề môi trường của người dân qua thời gian.

Tất cả các tỉnh/thành phố trên toàn quốc chỉ đạt dưới 4,3 điểm (dưới mức trung bình) trên thang đo từ 1-10 điểm, thấp hơn mức điểm cao nhất (4,73 điểm) của năm 2021. So với năm 2021, 8 tỉnh (gồm Bà Rịa Vũng Tàu, Bạc Liêu, Điện Biên, Hà Giang, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Sóc Trăng và Trà Vinh) đạt mức thay đổi về điểm đáng kể ở chỉ số nội dung này. Trong khi đó, có tới 26 tỉnh, thành phố đạt mức điểm thấp hơn 3 năm trước. Tương tự với kết quả của những năm trước, năm 2023, mối quan ngại về môi trường vẫn tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ nơi tập trung nhiều tỉnh, thành phố phát triển công nghiệp, bên cạnh vùng Tây Nguyên. Trong số 16 tỉnh thuộc nhóm “thấp”, có 6 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, 4 địa phương thuộc vùng Đông Nam Bộ và 4 địa phương thuộc vùng Tây Nguyên. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long dường như có kết quả đánh giá khả quan hơn so với 5 vùng kinh tế-xã hội còn lại, với 8 trong số 13 tỉnh, thành phố trong vùng thuộc về nhóm “cao”.

Việc thiếu nghiêm túc trong thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương và chất lượng nguồn nước sinh hoạt là lý do chính dẫn tới điểm số của các tỉnh, thành phố ở chỉ số nội dung này còn rất thấp. Có tới 20% số người trả lời ở tất cả các tỉnh/thành phố cho biết doanh nghiệp hoạt động ở địa phương họ sinh sống đã ‘chung chi” với chính quyền để trốn tránh nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Điều đáng khích lệ là, tỷ lệ đồng ý với nhận định tiêu cực đã giảm ở 24 tỉnh, thành phố, nhiều hơn so với năm 2022. Song, tỷ lệ này cũng tăng kể ở 35 tỉnh, thành phố so với kết quả khảo sát năm 2021, nhất là ở Hải Phòng, Phú Thọ, Quảng Bình, Thái Bình và Thanh Hóa.

Về phúc đáp của chính quyền địa phương trước phản ánh của người dân về các vấn đề ô nhiễm môi trường ở địa phương, tỷ lệ người trả lời cho biết chính quyền địa phương đã xử lý vấn đề môi trường ngay sau khi nhận được thông báo của họ tăng ở 25 tỉnh, thành phố so với kết quả khảo sát năm 2021. Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước và Tiền Giang là ba tỉnh có mức gia tăng về tỷ lệ này cao nhất (tăng hơn 20%). Tỷ lệ người dân đánh giá tích cực về mức độ phản hồi của chính quyền địa phương giảm mạnh nhất ở các tỉnh An Giang, Đắk Lắk, Lạng Sơn, Nam Định, Quảng Nam và Yên Bái (giảm hơn 20%).

(8) Quản trị điện tử:

Chỉ số nội dung “Quản trị điện tử” đo lường các khía cạnh mang tính tương tác của chính quyền điện tử: mức độ sẵn có, khả năng tiếp cận, mức độ thân thiện với người dùng và khả năng đáp ứng của dịch vụ công trực tuyến. Các tiêu chí cấu thành chỉ số nội dung này giúp cung cấp thông tin về độ sẵn có của cổng thông tin điện tử, cổng dịch vụ công trực tuyến và khả năng đáp ứng của chính quyền địa phương trước nhu cầu tiếp cận thông tin về quy trình, thủ tục, chính sách mà người dân phải tuân thủ. Chỉ số này cũng đo lường điều kiện sử dụng internet tại nhà để người dân có thể chủ động tham gia quản trị điện tử. Những chỉ tiêu này giúp chính quyền địa phương cải thiện hiệu quả tương tác với người dân và cung cấp dịch vụ công tốt hơn trên các cổng thông tin điện tử và cổng dịch vụ công ở từng khâu trong quy trình chính sách từ tham vấn ý kiến công dân cho tới thực thi và giám sát thực thi chính sách.

Tất cả các tỉnh/thành phố trên toàn quốc vẫn chỉ đạt dưới 4 điểm trên thang điểm từ 1-10, tương tự kết quả khảo sát các năm 2020-2022. Tuy vậy, so với kết quả năm 2021, có tới 39 tỉnh, thành phố đạt mức cải thiện khá đáng kể. Mặt khác, cũng có 3 tỉnh (Hà Nam, Lâm Đồng và Nghệ An) có số điểm thấp hơn đáng kể vào năm 2023. Trong số 15 tỉnh, thành phố thuộc nhóm “cao” có 5 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và 3 địa phương thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Trong số này cũng có 3 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trong khi đó, 16 tỉnh, thành phố thuộc nhóm “thấp” tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (7 trong số 11 tỉnh, thành phố) và vùng Tây Nguyên (3 trong số 5 tỉnh).

Trải nghiệm chưa thuận lợi của người dân được phản ánh qua các chỉ tiêu đánh giá ở nội dung thành phần “Sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương” và “Phúc đáp của chính quyền qua cổng thông tin điện tử của chính quyền”, dẫn tới điểm số chung thấp ở chỉ số nội dung “Quản trị điện tử” trong năm 2023. Vẫn tồn tại khoảng cách lớn giữa tỷ lệ người dân sử dụng internet và tỷ lệ người dùng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương, tương tự như ba năm trước. Khoảng cách về điểm giữa hai nội dung thành phần “Tiếp cận và sử dụng internet tại địa phương” và “Sử dụng cổng thông tin điện tử” lớn nhất ở 11 tỉnh, thành phố, đặc biệt là ở Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Dương và TP. Hồ Chí Minh với khoảng cách tương ứng từ 2,22 đến 2,37 điểm. Trong khi đó, triển vọng cho phát triển dịch vụ công điện tử gia tăng ở 38 tỉnh, thành phố nơi điểm “Tiếp cận và sử dụng internet tại địa phương” tăng từ 0,15 điểm năm 2021 lên 0,92 điểm năm 2023. 

Điểm yếu của các cổng thông tin điện tử của tất cả các tỉnh, thành phố là tính thân thiện với người dùng. Năm 2023, dưới 40% số người trả lời cho biết các cổng thông tin điện tử cấp tỉnh là dễ sử dụng. Tỷ lệ này thậm chí còn giảm ở 42 tỉnh, thành phố so với kết quả năm 2021. Tỷ lệ người cho biết các cổng thông tin điện tử của tỉnh/thành phố mình thân thiện với người dùng chỉ tăng ở 14 địa phương, trong đó Lai Châu và Sóc Trăng có tỷ lệ này tăng cao nhất.

Các cổng dịch vụ công cấp tỉnh chưa được nhiều người dân quan tâm sử dụng. Kết quả của hai chỉ tiêu mới (gồm “Tỷ lệ người trả lời cho biết đã sử dụng cổng dịch vụ công trực tuyến của địa phương” và “Tỷ lệ người trả lời cho biết đã có thể thanh toán trực tuyến trên cổng dịch vụ công của địa phương”) cho thấy, ở tất cả các tỉnh, thành phố, chưa đến 17% số người làm dịch vụ hành chính năm 2023 đã nộp hồ sơ trên cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh/thành phố. Ở 17 tỉnh, thành phố, chưa đến 5% người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh (thấp nhất ở An Giang, Bến Tre và Tiền Giang). Trong khi đó, 29 tỉnh, thành phố có tỷ lệ người dùng từ 5% đến dưới 10%. Ở 15 địa phương khác, tỷ lệ này đạt từ 10,5% đến 16,5% (cao nhất ở Hà Giang, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc). Trong số ít người dùng ở Hải Dương và Tuyên Quang, phần lớn cho biết họ đã có thể thanh toán tiền phí dịch vụ trên cổng dịch vụ công trực tuyến, trong khi ở Gia Lai, Hậu Giang và Trà Vinh, chưa người dùng nào có thể thanh toán cho dịch vụ công trực tuyến.

(9) Chỉ số tổng hợp PAPI 2023 cấp tỉnh:

Chỉ số tổng hợp PAPI đóng vai trò như một “tấm gương” để các tỉnh/thành phố “soi” lại hiệu quả công tác điều hành và cung ứng dịch vụ công, xem ngành nào, lĩnh vực nào, địa phương nào đã làm tốt hoặc chưa làm tốt nhiệm vụ phục vụ người dân trong một năm qua, từ đó tìm giải pháp cải thiện trong năm tiếp theo. Kết quả khảo sát PAPI 2023 cho thấy:

Khoảng cách về hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2023 giữa các tỉnh, thành phố không lớn. Chỉ số PAPI 2023 tổng hợp giữa điểm thấp nhất (38,97 điểm) và điểm cao nhất (46,04 điểm) là khoảng 7,07 điểm, nhỏ hơn khoảng cách này của Chỉ số PAPI 2021 và 2022 (với khoảng cách tương ứng của hai năm là 9,07 điểm và 10,84 điểm). Khoảng cách này cho thấy điểm các chỉ số nội dung PAPI 2023 có xu hướng hội tụ hơn. Vì vậy, chính quyền các tỉnh, thành phố không nên coi trọng điểm số tổng hợp chung mà cần xem xét kết quả ở các chỉ số, chỉ tiêu cụ thể.

Các tỉnh, thành phố phía Bắc và miền Trung có xu hướng được người dân đánh giá cao hơn so với các tỉnh, thành phố phía Nam. Trong số 15 tỉnh, thành phố thuộc nhóm “cao” có 5 địa phương thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và 4 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Trong số 16 tỉnh, thành phố thuộc nhóm “thấp” có 7 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và 3 địa phương thuộc vùng Tây Nguyên.

Những tỉnh, thành phố có sự cải thiện ở các chỉ số nội dung thành phần cần được ghi nhận bởi đây là những địa phương đã quan tâm đổi mới những lĩnh vực còn yếu kém mà PAPI đã giúp chỉ ra những năm trước. So với kết quả năm 2021, 24 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện đáng kể ở Chỉ số nội dung 1 “Tham gia của người dân ở cấp cơ sở”; 12 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện đáng kể ở Chỉ số nội dung 2 “Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định ở địa phương”; 5 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện đáng kể ở Chỉ số nội dung 3 “Trách nhiệm giải trình với người dân”; 12 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện đáng kể ở Chỉ số nội dung 4 “Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công”; và 39 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện đáng kể ở Chỉ số nội dung 8 “Quản trị điện tử”. Tuy nhiên, chỉ có 6 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện khá đáng kể ở Chỉ số nội dung 5 “Thủ tục hành chính công” (với mức gia tăng nhẹ trên 5% điểm); 1 tỉnh có mức độ cải thiện khá đáng kể ở Chỉ số nội dung 6 “Cung ứng dịch vụ công”; và 8 tỉnh, thành phố có mức độ cải thiện khá đáng kể ở Chỉ số nội dung 7 “Quản trị môi trường”. Ngược lại, có tới 19 tỉnh, thành phố có mức điểm giảm sút đáng kể ở Chỉ số nội dung 4; 17 tỉnh, thành phố có mức điểm giảm sút đáng kể ở Chỉ số nội dung 6; và 17 tỉnh, thành phố có mức điểm giảm sút đáng kể ở Chỉ số nội dung 7.

Quản trị địa phương và cung ứng dịch vụ công chưa mang tính bao trùm đối với người tạm trú ngắn hạn và dài hạn ở các tỉnh, thành phố tiếp nhận người nhập cư nội địa. Kết quả khảo sát năm 2023 ở 11 địa phương tiếp nhận nhiều người nhập cư cho thấy sự khác biệt trong đánh giá của hai tỉnh Đắk Nông và Thái Nguyên với 9 tỉnh, thành phố còn lại (Bắc Giang, Bắc Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đồng Nai, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Long An). Ở Đắk Nông và Thái Nguyên, đánh giá của người tạm trú dường như tích cực hơn so với người thường trú. Ngược lại, đánh giá của người tạm trú thấp hơn nhiều so với người thường trú ở Đồng Nai và Long An và mức chênh lệch ở hai tỉnh này lớn hơn so với mức chênh lệch ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

3. Kết luận

Báo cáo Chỉ số PAPI 2023, tương tự với các báo cáo PAPI thường niên trước, luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chính quyền các cấp xem xét, chú ý tới từng chỉ tiêu cụ thể để hiểu rõ hơn tâm tư, kỳ vọng của người dân tại địa phương mình, từ đó tìm giải pháp thích hợp để thực thi chính sách, pháp luật hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ công tốt hơn. Nói cách khác, để người dân đánh giá tích cực hơn hiệu quả hoạt động công vụ, lãnh đạo chính quyền các cấp cần rà soát từng vấn đề qua hơn 120 tiêu chí đánh giá, xác định những vấn đề cần ưu tiên giải quyết trong ngắn hạn và trung hạn, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp, từng ngành liên quan nhằm đổi mới phương thức phục vụ nhân dân.

Bên cạnh đó, mỗi tỉnh/thành phố ở Việt Nam có đặc điểm kinh tế-xã hội, nhân chủng học và địa lý riêng, vì vậy Báo cáo PAPI không coi trọng việc xếp hạng và so sánh các tỉnh/thành phố với nhau. Tuy vậy, các tỉnh/thành phố có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội tương đương và trong cùng vùng địa lý có thể học hỏi lẫn nhau. Cũng cần lưu ý rằng, việc phân theo bốn nhóm tứ phân vị chỉ mang ý nghĩa tương đối, không mang giá trị tuyệt đối; do đó, các chính quyền các tỉnh/thành phố không nên quá coi trọng tỉnh/thành phố mình thuộc nhóm nào. Thay vào đó, chính quyền các cấp và người đứng đầu các cơ quan, ban ngành địa phương cần quan tâm đến những chuyển biến qua các năm trong hiệu quả quản trị và hành chính công của chính tỉnh/thành phố mình thông qua các chỉ tiêu cụ thể cấu thành Chỉ số PAPI.

Chỉ số PAPI đề cao giá trị khách quan trong nghiên cứu và độ tin cậy của dữ liệu thu thập được với mục tiêu hỗ trợ các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương hiểu được trải nghiệm, tâm tư, kỳ vọng của người dân, từ đó xây dựng những kế hoạch cụ thể để cải thiện hiệu quả hoạt động, vì dân phục vụ. Một khi các chính sách phát triển được xây dựng dựa trên cơ sở dữ liệu đầu vào bảo đảm chất lượng, đời sống của tất cả mọi người sẽ được nâng lên.

Tài liệu tham khảo:
1. Nguồn: PAPI 2023 – Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam. https://www.papi.org.vn, ngày 02/4/2024.
2. Tóm tắt báo cáo PAPI 2023. https://congbo2023.papi.org.vn, ngày 02/4/2024.