Công tác giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh

ThS. Vương Hữu Ái Linh
Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – TP. Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững (từ năm 1992). Thành phố đã tập trung nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, từng bước kéo giảm tỷ lệ nghèo và thường xuyên bổ sung chuẩn nghèo để ngày càng tiếp cận với chuẩn nghèo của quốc tế; góp phần cùng với cả nước cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra.

Từ khóa: Quản lý nhà nước; công tác giảm nghèo bền vững, TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Nghèo đói đã và đang tác động đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội không chỉ ở phạm vi một địa phương hay một quốc gia mà cả thế giới. Ở Việt Nam, hoạt động giảm nghèo bền vững đã trở thành chiến lược lớn của quốc gia và đã được tổ chức thực hiện theo chương trình mục tiêu quốc gia. 

Những năm qua, TP. Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác giảm nghèo bền vững đạt nhiều kết quả, Thành phố đã cơ bản hoàn thành mục tiêu không còn hộ nghèo theo tiêu chí của từng giai đoạn. Hiệu quả của chương trình giảm nghèo bền vững của TP. Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần mang tính an sinh xã hội mà còn mang tính nhân văn sâu sắc; có ý nghĩa hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực cả về chính trị, văn hóa, kinh tế – xã hội.

2. Khái quát về thực trạng nghèo, cận nghèo tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 – 2023

Với tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế, TP. Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả nổi bật trong việc giảm nghèo bền vững cho người dân trong thời gian qua, cụ thể:

Dựa vào bảng trên có thể thấy, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của TP. Hồ Chí Minh thời gian qua có xu hướng giảm dần, thể hiện biểu đồ (Biểu đồ 1) sau:

Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm từ 5,76% năm 2016 xuống còn 1,5% năm 2023. Tổng số hộ nghèo, cận nghèo giảm từ 115.100 hộ xuống còn 38.452 hộ. Xét xu hướng của cả giai đoạn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo giảm, tuy nhiên, so với tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo năm 2019 thì tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo năm 2022 vẫn còn cao.

3. Một số kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh

3.1. Ban hành một số chính sách về giảm nghèo bền vững

Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến giảm nghèo bền vững, như: Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 – 2020, trong đó có chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 05/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020; Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ về quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025. 

Căn cứ vào các văn bản trên, Thành ủy TP. Hồ Chí Minh và UBND Thành phố đã ban hành một số chính sách, như: Nghị quyết số 15/2015/NQ-HĐND về Chương trình giảm nghèo bền vững của TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 – 2020; Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo thành phố áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020; Nghị quyết số 13/2020/NQ-HĐND về Chương trình giảm nghèo bền vững TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2021- 2025; Quyết định số 995/QĐ-UBND ngày 23/3/2021 về quy định chuẩn nghèo đa chiều thành phố giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 1291/QĐ-UBND ngày 15/4/2021 phê duyệt Chương trình giảm nghèo bền vững TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2025; Kế hoạch số 1306/KH-UBND ngày 29/4/2022 về thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững thành phố năm 2022…

3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nhân sự phục vụ công tác giảm nghèo

UBND TP. Hồ Chí Minh thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình giảm nghèo bền vững, trong đó giao Sở Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu cho UBND TP. Hồ Chí Minh về các công tác liên quan đến giảm nghèo. Tại UBND các quận, huyện, thành phố Thủ Đức cũng thành lập Ban Chỉ đạo giảm nghèo bền vững và phòng Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu cho UBND các quận, huyện, thành phố Thủ Đức các nội dung liên quan đến giảm nghèo trên địa bàn. Ngoài ra, TP. Hồ Chí Minh thành lập các tổ tự quản giảm nghèo bền vững. Theo đó, tính đến tháng 6/2023, toàn thành phố có 2.998 tổ tự quản giảm nghèo bền vững, trong đó có 2.961 tổ hoạt động khá trở lên (đạt 98,7%) và 37 tổ hoạt động trung bình (đạt 1,3%)1

Nhìn chung, công tác kiện toàn bộ máy phụ trách giảm nghèo bền vững được tổ chức thường xuyên, kịp thời bảo đảm thực hiện chương trình, kế hoạch giảm nghèo bền vững được liên tục và hiệu quả. 

Về đào tạo, bồi dưỡng. Hằng năm, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp với ban, ngành tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác giảm nghèo bền vững các cấp với hơn 3.892 người tham dự2. Theo đó, đã hướng dẫn cán bộ chuyên trách nắm vững các nghiệp vụ về công tác quản lý hộ; quản lý các thủ tục cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện và công tác quản lý quỹ, các nguồn vốn để phục vụ cho công tác giảm nghèo bền vững.

3.3. Tổ chức thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo

Chương trình giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh được triển khai trên cơ sở phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, bao gồm: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố, Hội Chữ thập đỏ Thành phố, Hội Nông dân Thành phố, Liên đoàn Lao động Thành phố, Hội Cựu chiến binh Thành phố, Ban Chấp hành Đoàn TP. Hồ Chí Minh, Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo và Ban Dân tộc. Mỗi tổ chức, hội đều thực hiện các chương trình khác nhau nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh.

Trong công tác tuyên truyền, Thành phố đã thực hiện tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thu hút được sự chú ý của các tầng lớp nhân dân, như: đăng tin trên website của UBND thành phố và bản tin của các quận, huyện. Kết quả thống kê giai đoạn 2016 – 2023, mỗi năm, đã đã biên tập và phát hành hơn 16.000 bản tin giảm nghèo bền vững và hơn 250.000 tờ rơi về quy định chuẩn nghèo đa chiều thành phố theo từng giai đoạn; đồng thời, phối hợp với Đài Tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh phát thanh về Chương trình Nông thôn mới – chuyên mục “Cùng nhau vượt nghèo” được 52 kỳ, với 104 lượt phát sóng.

Về chính sách hỗ trợ y tế: hằng năm, đã cấp trên 120.000 thẻ bảo hiểm y tế diện hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát mức chuẩn cận nghèo với số tiền trên 90.000 tỷ đồng. Hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh; hỗ trợ tiền ăn khi điều trị bệnh nội trú; hỗ trợ chi phí phẫu thuật tim; tiền ăn, tiền đi lại cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh vào khoảng 12.000 tỷ đồng/năm.

Chính sách hỗ trợ tiếp cận nguồn nước sinh hoạt an toàn: hằng năm, hỗ trợ hơn 71.000 lượt hộ với số tiền 961 triệu đồng; hỗ trợ tiền điện cho hơn 144.421 lượt hộ với 21,806 tỷ đồng; hỗ trợ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho 3.500 lượt lao động với 452,65 triệu đồng.

Chính sách hỗ trợ nhà ở: năm 2022, đã thực hiện xây mới 167 căn nhà tình thương, với số tiền 10,581 tỷ đồng; sửa chữa chống dột 794 căn nhà, với số tiền hơn 38,014 tỷ đồng và hỗ trợ sửa chữa, xây mới cho 96 căn nhà tình nghĩa, với số tiền hơn 5,113 tỷ đồng.

Chính sách hỗ trợ miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập: hỗ trợ miễn, giảm học phí mỗi năm cho hơn 16.000 học sinh diện hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ thoát mức chuẩn hộ cận nghèo, với số tiền 5,53 tỷ đồng.

Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm: đã thực hiện hỗ trợ cho hơn 1.404 lao động mỗi năm, với số tiền là 176,1 triệu đồng. Hỗ trợ giải quyết việc làm cho hơn 6.203 lao động mỗi năm, trong đó, hỗ trợ việc làm trong nước cho 6.200 lao động và ngoài nước là 3 lao động. 

Chính sách trợ giúp xã hội: theo tổng hợp báo cáo của 21 quận, huyện và thành phố Thủ Đức, tổng số hộ nghèo diện khó khăn (thời điểm ngày 01/01/2022) là 781 hộ, với 1.913 nhân khẩu; đến nay, 21 quận, huyện đã thực hiện chi hỗ trợ cho 769 hộ, với số tiền 7,046 tỷ đồng3.

3.4. Huy động nguồn lực tài chính cho công tác giảm nghèo

Để có nguồn lực tài chính thực hiện giảm nghèo bền vững, TP. Hồ Chí Minh đã huy động mọi nguồn lực của xã hội, như: các nguồn quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ tín dụng cho vay hộ nghèo, quỹ xóa đói, giảm nghèo… Ngoài ra, thành phố đã thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn thông qua hình thức lồng ghép các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, thành phố cũng đã công khai các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ giúp người dân tiếp cận các nguồn vốn và chuyển giao kỹ thuật vào sản xuất; hỗ trợ liên kết, tiêu thụ sản phẩm cho người dân, tạo sinh kế cho người nghèo. Kết quả huy động nguồn lực tài chính để thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn Thành phố như sau:

Có thể thấy, nguồn lực tài chính thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh không ngừng tăng lên qua các năm, cụ thể tổng kinh phí tăng từ 7.018 tỷ đồng năm 2016 lên 9.026 tỷ đồng năm 2023, nguồn vốn cho vay tăng từ 1.366 tỷ đồng năm 2016 lên 2.204 tỷ đồng năm 2023.

3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát

Thành phố đã thường xuyên tổ chức đoàn thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động giảm nghèo bền vững. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào các nội dung:

Thứ nhất, giám sát thực hiện quy trình khảo sát, xác định và lập danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo; việc kiểm tra hiệu quả giảm nghèo bền vững và việc rà soát cập nhật tăng, giảm hộ nghèo, hộ cận nghèo và thành viên (hộ mới thoát nghèo, hộ chuyển nhóm, hộ chuyển đi, hộ mới phát sinh và tăng, giảm thành viên hộ…).

Thứ hai, giám sát việc thực hiện các chính sách và giải pháp hỗ trợ giảm nghèo bền vững của thành phố đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ vượt chuẩn cận nghèo, bảo đảm thực hiện đúng đối tượng, kịp thời và đầy đủ; từng bước nâng thu nhập và kéo giảm các chiều thiếu hụt về dịch vụ xã hội cơ bản.

Thứ ba, kiểm tra đối tượng vay vốn và nhu cầu vay vốn; việc sử dụng vốn vay của hộ nghèo, hộ cận nghèo và các cơ sở sản xuất – kinh doanh giải quyết việc làm cho lao động nghèo; thu nhập của hộ dân, cơ sở sau khi được vay vốn làm kinh tế. Kiểm tra quy trình, thủ tục, thời gian thực hiện hồ sơ đến khi nhận vốn vay của hộ dân.

Thứ tư, cán bộ, công chức chuyên trách giảm nghèo bền vững, tổ tiết kiệm vay vốn, Tổ tự quản giảm nghèo bền vững khảo sát, lập kế hoạch, nhu cầu vay vốn và phối hợp xét duyệt hồ sơ vay vốn quỹ xóa đói, giảm nghèo; xác định những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phối hợp quản lý, cho vay, thu hồi vốn của các nguồn quỹ giải quyết việc làm, quỹ xóa đói, giảm nghèo, quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất.

Thứ năm, thực hiện kiểm tra, phúc tra các quận, huyện trên địa bàn Thành phố đã hoàn thành Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020 và giai đoạn 2021 – 2025. 

4. Một số hạn chế trong thực hiện công tác giảm nghèo

Bên cạnh kết quả đạt được trên, công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững của thành phố cũng còn gặp những tồn tại sau:

Một là, về bộ máy tổ chức. Công tác phối hợp của một số thành viên Ban Chỉ đạo chương trình giảm nghèo bền vững một số quận, huyện trên địa bàn thành phố chưa đồng bộ, chưa có sự gắn kết kế hoạch, chỉ tiêu giảm nghèo bền vững với kế hoạch thường xuyên hằng năm của từng ngành; chưa có sự trao đổi thông tin thường xuyên về các số liệu do ngành mình quản lý. Đội ngũ cán bộ chuyên trách giảm nghèo bền vững luôn thay đổi nên ảnh hưởng đến công tác quản lý, theo dõi và nắm hộ nghèo, dẫn đến việc tiếp cận, tham gia xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững theo phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều có lúc còn hạn chế. Các tổ tự quản giảm nghèo bền vững hoạt động kiêm nhiệm nên chất lượng hoạt động chưa đạt hiệu quả.

Hai là, công tác tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo. Một số quận, huyện trên địa bàn thành phố còn thiếu kiên quyết trong công tác chỉ đạo, việc điều tra những hộ nghèo còn khoán trắng cho Ban Chỉ đạo chương trình giảm nghèo bền vững hoặc cán bộ chuyên trách nên việc nắm hộ nghèo thiếu chặt chẽ. Công tác tuyên truyền bằng pano, áp phích trên địa bàn thành phố còn hạn chế nên phần nào ảnh hưởng đến sự trợ giúp của cộng đồng, xã hội đối với giảm nghèo bền vững. 

Ba là, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững chưa thực hiện đồng bộ, một số quận trên địa bàn thành phố còn lơ là, quá trình thực hiện mang nặng tính hình thức, chỉ kiểm tra theo định kỳ, thiếu các cuộc khảo sát đột xuất để đem lại hiệu quả cao trong giám sát.

5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Một là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức chính trị – xã hội trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị các cấp. Huy động tối đa nguồn lực, phát huy tốt đa vai trò của các cơ quan tham mưu giúp việc, gồm: Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố; phòng Lao động – Thương binh và Xã hội; hệ thống ngân hàng Chính sách xã hội quận, huyện.

Hai là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững là yếu tố quyết định đến hiệu quả công tác. Do vậy, cần thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác giảm nghèo, nhất là ở phường, xã, thị trấn (kể cả tổ trưởng tổ tự quản giảm nghèo); chọn những người có trách nhiệm, có năng lực, gắn bó, sâu sát với Nhân dân, hướng dẫn và hỗ trợ kịp thời cho người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo tiếp cận các dịch vụ cơ bản của xã hội.

Tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giảm nghèo để họ nắm, hiểu biết sâu sắc và đầy đủ về người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo; thường xuyên thực hiện thu thập thông tin về nghèo đa chiều trên địa bàn thành phố phục vụ cho việc dự báo, theo dõi, đánh giá, phân tích nguyên nhân nghèo; xây dựng các tiêu chí để đưa ra chính sách hỗ trợ giảm nghèo bền vững đạt hiệu quả. 

Ba là, thay đổi chính sách hỗ trợ cào bằng cho người nghèo thành chính sách hỗ trợ có điều kiện, bù đắp kịp thời, đáp ứng với nhu cầu của người nghèo. Ở TP. Hồ Chí Minh, với hạn chế về diện tích đất nên thay đổi đánh giá nghèo từ sở hữu nhà ở sang việc giúp đỡ nhà cho thuê với mức giá hỗ trợ để hộ nghèo, hộ cận nghèo bảo đảm điều kiện sống; đồng thời, đẩy mạnh hơn nữa các nguồn vốn hỗ trợ để hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn được tiếp xúc với mức lãi suất ưu đãi giúp họ vươn lên thoát nghèo. 

Bốn là, đa dạng hóa các nguồn lực, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống tương thân, tương ái trong cộng đồng, huy động tối đa nguồn lực của xã hội, các thành phần kinh tế, đi đôi với ưu tiên bố trí nguồn ngân sách đáp ứng yêu cầu của chương trình giảm nghèo bền vững. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực, bảo đảm đúng mục tiêu, đúng đối tượng; kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn kinh phí của chương trình không đúng mục đích, trái quy định, không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.

Năm là, làm tốt công tác tuyên truyền cho người nghèo, hộ nghèo kết hợp với sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào các hoạt động giảm nghèo, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, động viên, khích lệ, cổ vũ phong trào thi đua thoát nghèo trong mỗi hộ nghèo, hộ cận nghèo – đây là yếu tố quyết định giảm nghèo bền vững.

Chú thích:
1, 2, 3. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 – 2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo Chương trình giảm nghèo bền vững TP. Hồ Chí Minh. Tài liệu tập huấn cán bộ làm công tác giảm nghèo bền vững năm 2018. TP. Hồ Chí Minh, 2018.
2. Nguyễn Hữu Hải. Lý luận hành chính nhà nước (giáo trình đại học). Học viện Hành chính, Hà Nội, 2012.
3. Lê Quốc Lý. Chính sách xóa đói giảm nghèo – thực trạng và giải pháp. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2012.
4. Nghị quyết số 13/2020/NQ-HĐND về Chương trình giảm nghèo bền vững TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2025.
5. Nghị quyết số 15/2015/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố khóa VIII kỳ họp thứ 20 về Chương trình giảm nghèo bền vững của TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 – 2020.
6. Quyết định số 1614/QĐ-TTg ngày 15/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020.
7. Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo thành phố áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020.
8. Quyết định số 3582/2016/QĐ-UBND ngày 12/7/2016 của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về phê duyệt Chương trình giảm nghèo bền vững của Thành phố giai đoạn 2016 – 2020.