Xây dựng thương hiệu nông sản đặc sản: nghiên cứu tại Cao Bằng

TS. Nguyễn Thế Kiên
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Cao Bằng là địa phương có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp, cùng với những lợi thế riêng có, Cao Bằng xác định nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực trong phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng xây dựng thương hiệu nông sản đặc sản của Cao Bằng, bài viết phân tích, kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng, giữ gìn và phát triển thương hiệu cho các nông sản đặc sản của địa phương trong thời gian tới.

Từ khóa: Cao Bằng; nông sản đặc sản; thương hiệu.

1. Mở đầu

Xây dựng thương hiệu nông sản dựa trên thế mạnh nông sản của từng địa phương là nhiệm vụ quan trọng góp phần nâng cao giá trị nông sản, hướng tới phát triển bền vững nông nghiệp. Với diện tích đất nông nghiệp lớn, khoảng 150.000 ha đất có khả năng phát triển nông nghiệp, diện tích cây trồng chính gần 90.000 ha, chủ yếu là cây lương thực; nhiều vùng sinh thái và gắn liền với các cây trồng, đặc hữu, phần lớn diện tích canh tác chưa bị xâm lấn bởi các chất hóa học, cộng thêm nền khí hậu đặc trưng, tỉnh Cao Bằng mang nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp với nhiều nông sản đặc sản. Trong đó, nông sản đặc thù, chất lượng cao được xem là thế mạnh, điểm tựa để người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng từng bước thoát nghèo bền vững. Sớm xác định được ưu điểm, lợi thế phát triển đặc sản nông sản, thời gian qua, tỉnh Cao Bằng đã đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho các nông sản, góp phần quảng bá, giới thiệu nông sản của địa phương với các tỉnh trong cả nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu vẫn chưa đồng bộ và thiếu bền vững, chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế của địa phương.

2. Thực trạng xây dựng thương hiệu nông sản đặc sản của Cao Bằng

Hiện nay, toàn tỉnh Cao Bằng có gần 200 sản phẩm nông nghiệp lợi thế thuộc 6 nhóm sản phẩm, gồm: nhóm thực phẩm trên 135 sản phẩm; đồ uống: 11 sản phẩm; thảo dược: 19 sản phẩm; vải và may mặc: 3 chuỗi sản phẩm; lưu niệm, nội thất, trang trí: 6 sản phẩm; dịch vụ – du lịch nông thôn: 10 sản phẩm…1.

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã góp phần nâng tầm giá trị sản phẩm truyền thống của tỉnh Cao Bằng. Thông qua chương trình, địa phương đã có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, được ứng dụng khoa học – công nghệ gắn với chuỗi giá trị sản phẩm, từ đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tỉnh Cao Bằng đang tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP. 

Cao Bằng hiện có 5 làng nghề hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, 149 hợp tác xã và 1 liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp2… Đây là những lợi thế để các tổ chức, cá nhân sản xuất những sản phẩm truyền thống, dịch vụ có lợi thế tham gia Chương trình OCOP, tạo nên những sản phẩm có giá trị, sức cạnh tranh trên thị trường. 

Toàn tỉnh hiện có gần 100 sản phẩm OCOP (9 sản phẩm đạt OCOP 4 sao và 88 sản phẩm đạt OCOP 3 sao) thuộc 5 nhóm sản phẩm, gồm: 77 sản phẩm thuộc nhóm thực phẩm, 10 sản phẩm thuộc nhóm đồ uống, 3 sản phẩm thuộc nhóm dược liệu và sản phẩm từ dược liệu, 4 sản phẩm thuộc nhóm thủ công mỹ nghệ, 3 sản phẩm thuộc nhóm dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và điểm du lịch3. Việc tích cực thực hiện chương trình OCOP là nền tảng quan trọng để địa phương thực hiện xây dựng thương hiệu cho các nông sản đạt chuẩn.

Nhiều sản phẩm OCOP của tỉnh đã có mặt tại một số chuỗi siêu thị và đại lý, cửa hàng bán lẻ tại thị trường trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm OCOP của tỉnh có năng lực sản xuất lớn, tiêu thụ ổn định, xuất khẩu, như: sản phẩm lạp sườn, thịt xông khói của Hợp tác xã Tâm Hòa; miến dong Tân Việt Á của Hợp tác xã Nông sản Tân Việt Á; bún khô của Hợp tác xã Ba sạch Hưng Đạo; thạch đen Lê Thùy của hộ kinh doanh Nông Thị Lệ Thùy; gạo nếp hương Bảo Lạc của Doanh nghiệp tư nhân 668 Bảo Lâm; bún khô Cao Tuyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Cao Tuyền. Các mô hình trồng cây thanh long đang dần thay thế diện tích đất đồi và những cây trồng kém hiệu quả kinh tế ở một số địa phương của tỉnh, mở ra hướng đi cho người dân trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao chất lượng nông sản, phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; các sản phẩm mật ong đã từng bước khẳng định được thương hiệu đến người tiêu dùng, tạo động lực cho người dân mở rộng quy mô nuôi ong lấy mật, chất lượng mật ong cũng sẽ được nâng lên, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Ngoài ra, một số sản phẩm đã hướng tới thị trường xuất khẩu như: hồng trà, lục trà của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kolia được xuất khẩu sang các nước, như: Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Australia; chiếu trúc, chiếu trúc hoạt hóa của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 668 xuất khẩu Đài Loan (Trung Quốc) góp phần nâng cao thương hiệu, đưa sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Các sản phẩm OCOP góp phần thu hút khách du lịch và mở rộng các chương trình du lịch4.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm phát triển nông nghiệp thông minh theo hướng sản xuất hàng hoá đặc hữu gắn với chế biến nhằm xây dựng thương hiệu, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp, hướng đến xuất khẩu ra thị trường trong và ngoài nước. 

Trên cơ sở chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030; chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2030; chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030; đề án nâng cao năng lực cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các chủ trương, chính sách, chương trình, đề án ở cấp bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND) Cao Bằng đã ban hành Kế hoạch xây dựng thương hiệu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm từ lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Cụ thể:

Tỉnh Cao Bằng đã chú trọng áp dụng nhiều giải pháp tuyên truyền, phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ trên địa bàn tỉnh bằng nhiều hình thức như: tập huấn, viết báo, tin, phóng sự truyền hình… các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ; đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển tài sản trí tuệ; tra cứu thông tin về sở hữu trí tuệ. Tiếp tục hỗ trợ cho việc đăng ký sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm đã được cấp giấy chứng nhận theo quy định; hỗ trợ về thủ tục đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm chủ lực của tỉnh, như: gạo nếp hương của huyện Bảo Lạc; nếp ong của huyện Trùng Khánh; thạch đen và lê Đông Khê của huyện Thạch An. Giấy chứng nhận VietGAP, chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm; truy xuất nguồn gốc sản phẩm. 

Thực hiện chủ trương về phát triển nông nghiệp, tỉnh đã và đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền việc đăng ký sở hữu trí tuệ đối với các đặc sản dưới hình thức chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể. Theo Luật Sở hữu trí tuệ: “Nhãn hiệu” là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. “Nhãn hiệu tập thể” là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. “Chỉ dẫn địa lý” là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. 

UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo thực hiện hiệu quả trong phối hợp, liên kết với các đề án, dự án thuộc Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh để phát huy hiệu quả những kết quả của đề án làm tiền đề cho việc phân phối, lưu thông và xây dụng thương hiệu sản phẩm. Hỗ trợ tập huấn quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, tổ chức hội nghị khách hàng, tìm kiếm thị trường đối tác, tổ chức hội nghị ký kết hợp đồng; hỗ trợ chứng nhận sản phẩm an toàn; hỗ trợ bao bì, nhãn mác sản phẩm cho doanh nghiệp (hỗ trợ sau đầu tư).

Đẩy mạnh quảng bá sản phẩm trên thông tin điện tử, quảng bá và cập nhật thường xuyên thông tin thị trường các sản phẩm cùng loại trên sàn giao dịch điện tử, cổng thông tin điện tử của tỉnh, trang Website của tỉnh, bản tin… Những năm gần đây, tỉnh đã không ngừng thực hiện hoạt động hỗ trợ xây dựng bao bì nhãn hiệu sản phẩm, chứng nhận an toàn sản phẩm truy xuất nguồn gốc; xây dựng nhãn hiệu tập thể, xây dựng nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm góp phần đưa các nông sản đặc sản của địa phương đến với thị trường.

Toàn tỉnh hiện có hơn 100 nhãn hiệu được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp văn bằng bảo hộ. Trong đó, có các nhãn hiệu được đăng ký mang tên địa danh, như: chỉ dẫn địa lý “Trùng Khánh” cho sản phẩm hạt dẻ huyện Trùng Khánh; nhãn hiệu tập thể “miến dong Nguyên Bình”, nhãn hiệu tập thể “quýt Trà Lĩnh”…  

Cao Bằng luôn xác định nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực trong phát triển kinh tế – xã hội. Các địa phương căn cứ vào điều kiện thực tế làm tốt công tác quy hoạch sản xuất; tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng khoa học – công nghệ, sản xuất để nâng cao giá trị kinh tế. Xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh hàng hóa phục vụ các cơ sở chế biến, xuất khẩu. Để khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tỉnh tập trung chỉ đạo các ngành chức năng, địa phương phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh liên kết “4 nhà” (Nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà nông – nhà khoa học) trong phát triển các loại cây trồng, vật nuôi; rà soát, quy hoạch hàng hóa theo vùng sản xuất, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm các vùng sản xuất hàng hóa tập trung…

Tuy nhiên, quá trình xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa của tỉnh gặp một số khó khăn, việc liên kết sản xuất chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia, nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm. Liên kết chuỗi trong sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm giữa doanh nghiệp và người dân chưa bền vững. Xảy ra tình trạng ép giá của doanh nghiệp hay người dân không thực hiện đúng cam kết bán sản phẩm cho doanh nghiệp mà bán cho thương lái. Sự tham gia “4 nhà” vào quá trình liên kết chưa chặt chẽ, nhiều mô hình sản xuất chưa có sự tham gia đầy đủ, phối hợp chặt chẽ của các bên. Một số  người  dân, doanh nghiệp chưa tiếp cận đầy đủ thông tin khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, thị trường nông sản, chính sách hỗ trợ nông nghiệp của Chính phủ, các nguồn vốn ưu đãi để phát triển nông nghiệp… dẫn đến đầu tư, phát triển sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế.

Hiện nay, các quy định pháp lý đối với đăng ký sở hữu trí tuệ cho nông sản đã khá đầy đủ từ cấp trung ương tới địa phương như: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022); Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp; Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ và các thông tư sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, các chính sách đặc thù ở mỗi địa phương. 

Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản dưới luật quy định về điều kiện bảo hộ, chủ sở hữu, hồ sơ (đơn đăng ký), trình tự, thủ tục thẩm định hồ sơ nhưng chưa quy định cụ thể nội dung và cách thức thẩm định hồ sơ. Do đó, hoạt động thẩm định nội dung hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý đang gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp chưa hiểu được tầm quan trọng của việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu cho các sản phẩm, nên chưa thực sự chú tâm, đầu tư và hợp tác trong xây dựng thương hiệu. Việc hoàn thiện hồ sơ của người dân để hoàn thành thủ tục còn gặp nhiều khó khăn. 

Một số thương hiệu nông sản đăng ký bảo hộ chưa gắn với thực tiễn và yêu cầu sản xuất – kinh doanh ở địa phương cũng như nhu cầu của thị trường. Điều này làm hạn chế gia tăng giá trị cho sản phẩm, giảm uy tín của thương hiệu đã được đăng ký.

Hiện nay, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về xây dựng thương hiệu chủ yếu tập trung vào đăng ký bảo hộ; các nội dung về quản lý, phát triển thị trường còn hạn chế, chỉ mang tính chất thí điểm, chưa đủ để thúc đẩy và nâng cao năng lực của đơn vị quản lý, đặc biệt là các tổ chức tập thể. Bên cạnh đó, các vấn đề về xây dựng sản phẩm, quảng bá và phát triển thị trường sau khi nông sản được đăng ký nhãn hiệu cũng chưa được quan tâm. Một số ít hàng hóa có thể xuất khẩu, như: mía, thạch đen, dâu tằm lại hạn chế về số lượng, chưa đáp ứng được những đơn hàng lớn từ phía bạn. Cao Bằng cũng chưa mời gọi, hấp dẫn được nhiều doanh nghiệp, chủ đầu tư phát triển nông nghiệp, hình thành các vùng sản phẩm hàng hóa lớn, tập trung.

3. Giải pháp, kiến nghị

Để tạo điều kiện cho các địa phương trong xây dựng, giữ gìn và phát triển các thương hiệu nông sản đặc sản, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, ban hành và điều chỉnh một số chính sách, như: chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu thông qua thúc đẩy đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ trong và ngoài nước; chính sách hỗ trợ xây thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; chính sách thúc đẩy và tăng cường hiệu quả thực thi và chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xâm phạm thương hiệu; chính sách hỗ trợ hình thành, tạo dựng văn hóa sở hữu trí tuệ và phát triển thương hiệu nông sản; hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo hộ thương hiệu.

Ngoài ra, để xây dựng và phát triển thương hiệu cho các nông sản đặc sản của Cao Bằng trên cơ sở phát huy những lợi thế vốn có của địa phương, trong thời gian tới cần đẩy mạnh thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, tỉnh cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản đặc sản của địa phương, từ đó có sự quan tâm dành nguồn lực đầu tư xứng đáng. Mỗi cá nhân, tổ chức phải cọi việc xây dựng thương hiệu cho các nông sản đặc sản của mình là nhiệm vụ quan trọng, đột phá và có tính chiến lược, giúp nông sản trụ vững và phát triển. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm là trách nhiệm chung của toàn xã hội, không phải của một bộ, ngành, địa phương hay tổ chức nào. Theo đó, cần có định hướng phát triển đồng bộ trên cả ba trụ cột: (1) Xây dựng sản phẩm chất lượng; (2) Có doanh nghiệp tốt, tham gia với quy mô lớn và (3) Có hệ sinh thái tốt để thương hiệu phát triển.

Để có sản phẩm tốt, cần nghiên cứu làm rõ lợi thế của địa phương, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm OCOP, khuyến khích các cá nhân, tổ chức đẩy mạng ứng dụng công nghệ mới, đầu tư phát triển bền vững sản phẩm dựa trên các tiêu chuẩn về chất lượng. Tiếp theo, cần quan tâm phát triển các sản phẩm có tính đổi mới, đặc trưng, sáng tạo và năng lực tiên phong trên thị trường, hoạt động sản xuất sản phẩm phải đồng đều, ổn định và có tính bền vững và kinh doanh phải có văn hóa, đạo đức và uy tín; nghiêm túc rà soát, định hướng trọng chọn lựa các sản phẩm có thế mạnh để tổ chức và đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ với hình thức phù hợp cho từng thương hiệu nông sản địa phương; xây dựng hình ảnh đặc trưng của thương hiệu gắn liền với giá trị về lịch sử và đặc thù địa phương; lồng ghép các chương trình dự án phát triển thương hiệu để tăng cường hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn, nâng cao năng lực để đăng ký về sở hữu trí tuệ, đăng ký và phát triển thương hiệu địa phương.

Hai là, tăng cường mối liên kết bốn nhà để xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản. Trong đó, nhà nông cần bảo đảm quy trình sản xuất, được hướng dẫn kỹ thuật canh tác qua các chương trình khuyến nông; Nhà nước có nhiều chương trình hỗ trợ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển; nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu giống mới chất lượng cao, đề nghị quy trình thực hiện sau thu hoạch một cách khoa học; nhà doanh nghiệp cam kết thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm với giá hợp lý cho nhà nông.

Ba là, tỉnh cần có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp có sản phẩm đạt chuẩn đăng ký thương hiệu và đầu tư phát triển sản phẩm, thương hiệu hướng đến phân phối rộng khắp trong nước và xuất khẩu. Để thực hiện tốt giải pháp này, tỉnh cần có các chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế, thủ tục hành chính, định hướng phát triển thích hợp. 

Bốn là, để xây dựng hệ sinh thái cho các thương hiệu, tỉnh cũng cần đẩy mạnh việc hỗ trợ đăng ký, bảo hộ thương hiệu và các hoạt động tuyên truyền, quảng bá cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, xuất khẩu tiềm năng của địa phương ở thị trường quốc tế, trong đó tập trung vào các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm phải được thực hiện đồng thời cả ở 3 cấp độ: thương hiệu quốc gia, thương hiệu vùng miền, địa phương và thương hiệu doanh nghiệp.

4. Kết luận

Xây dựng, giữ gìn và phát triển thương hiệu cho các nông sản đặc sản là nhiệm vụ quan trọng đối với giá trị của nông sản nói riêng, giá trị của ngành Nông nghiệp nói chung. Tỉnh Cao Bằng đã nỗ lực xây dựng thương hiệu cho các nông sản đặc sản của địa phương, góp phần đưa nông sản đặc sản ngày càng phát triển, được phân phối khắp cả nước và xuất khẩu, góp phần xây dựng nền nông nghiệp của tỉnh phát triển, cải thiện đời sống người dân, đặc biệt là người dân ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Trước những cơ hội và thách thức mới, Cao Bằng cần có những chính sách thỏa đáng, phù hợp nhằm nâng cao chất lượng nông sản, xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu cho các nông sản đặc thù của địa phương.

Chú thích:
1. Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng. Niêm giám thống kê. H. NXB Thống kê, 2022.
2, 3. Danh sách sản phẩm OCOP Cao Bằng. http://caobangtrade.vn, ngày 12/4/2023.
4. Báo cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh Cao Bằng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. https://storage-vnportal.vnpt.vn, truy cập ngày 20/4/2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Tại sao cần phải đăng ký nhãn hiệu cho nông sản địa phương. https://nhanhieuviet.gov.vn, ngày 12/5/2019.
2. Xây dựng, quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể.https://ipvietnam.gov.vn, ngày 25/12/2019.