Nguyễn Ngọc Diệp
Trường Đại học Thành Đông
(Quanlynhanuoc.vn) – Dạy và học các môn Lý luận chính trị có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong chương trình đào tạo bậc cao đẳng, đại học nói chung và trường Đại học Thành Đông nói riêng. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh giáo dục lý luận chính trị là nhiệm vụ cơ bản trong tình hình mới. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy và học các môn Lý luận chính trị nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là một yêu cầu cấp thiết đối với tất cả các cơ sở giáo dục. Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc dạy và học các môn Lý luận chính trị tại trường Đại học Thành Đông, bài viết đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Nâng cao chất lượng, các môn lý luận chính trị, giải pháp, Trường Đại học Thành Đông.
1. Đặt vấn đề
Việc nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị tại các trường cao đẳng, đại học hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Hơn nữa, các môn Lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng lý luận chính trị cho sinh viên, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ giỏi kỹ năng chuyên môn mà còn vững vàng về bản lĩnh chính trị; từng bước hoàn thiện thế giới quan và nhân sinh quan tích cực. Trên cơ sở đó, thúc đẩy sinh viên tự giác, tự nguyện hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Tuy nhiên, hiện nay việc dạy và học các môn Lý luận chính trị tại một số trường cao đẳng, đại học nói chung, tại trường Đại học Thành Đông nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế từ phía người dạy, người học đến hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật… dẫn đến chất lượng môn học còn thấp. Vì thế việc phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị tại Trường Đại học Thành Đông là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn.
2. Thực trạng những khó khăn, vướng mắc trong công tác dạy và học các môn Lý luận chính trị tại Trường Đại học Thành Đông hiện nay
Thứ nhất, các môn Lý luận chính trị vốn có tính khái quát và trừu tượng cao, nặng về lý thuyết hàn lâm, nhưng lại thường được xếp vào chương trình học các năm thứ nhất, thứ hai khi sinh viên còn bỡ ngỡ, chưa quen với phương pháp học ở bậc cao đẳng, đại học. Vì vậy, tâm lý nhiều sinh viên khi nghe tới môn học đã e ngại, không thích học, không tập trung, không chủ động tìm hiểu và nghiên cứu môn học trước khi đến lớp, nên dẫn đến kết quả môn học còn thấp.
Theo số liệu thống kê kết quả học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên Nhà trường năm học 2021 – 2022 do Phòng Quản lý Đào tạo cung cấp thì số lượng sinh viên đạt tỉ lệ khá, giỏi chỉ xấp xỉ 30%; còn lại trên 65% sinh viên xếp loại trung bình, yếu; năm học 2022 – 2023 số lượng sinh viên đạt tỉ lệ khá, giỏi đạt 32%; gần 70% sinh viên còn lại xếp loại trung bình, yếu.
Mặt khác, sinh viên thường quan niệm đây là môn học chung, môn bắt buộc không liên quan gì nhiều đến các học phần chuyên ngành nên một bộ phận sinh viên có thói quen “học vẹt”, “học tủ” miễn là qua được môn, còn về bản chất vấn đề hầu như không hiểu, không có đam mê hứng thú, khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn gần như không có.
Trên thực tế, để học tốt được các môn Lý luận chính trị đòi hỏi sinh viên phải có nền tảng kiến thức khoa học xã hội nhất định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây học sinh trung học phổ thông ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội (nhất là môn lịch sử) chủ yếu là do không nhận thức được tầm quan trọng của việc hiểu biết về xã hội, văn hóa, lịch sử nên những lỗ hổng về kiến thức xã hội đã trở thành rào cản để sinh viên tiếp thu kiến thức các môn Lý luận chính trị.
Thứ hai, về đội ngũ giảng viên Lý luận chính trị của Trường. Đội ngũ giảng viên còn mỏng; kinh nghiệm, trình độ và phương pháp giảng dạy của một số giảng viên còn hạn chế. Tính đến năm học 2022 – 2023, số lượng giảng viên Lý luận chính trị toàn trường là 8 người, đảm nhiệm 5 học phần (trong đó có 2 PGS.TS; 5 thạc sỹ, 1 cử nhân); nên nhà trường vẫn phải mời giảng viên thỉnh giảng ở một số học phần, như: Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học… Cùng với đó, giảng viên giảng dạy các môn Lý luận chính trị chủ yếu là giảng viên trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm và vốn sống; còn thiếu kỹ năng giảng dạy và xử lý tình huống.
Thực tiễn công tác giảng dạy cho thấy, muốn giảng dạy tốt các môn Lý luận chính trị ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn giảng viên cần có vốn sống, vốn hiểu biết xã hội phong phú để phân tích, giảng giải thấu đáo vấn đề. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy phải biết lồng ghép những hình ảnh, câu chuyện thực tiễn đang diễn ra vào nội dung bài học sao cho phù hợp, cuốn hút. Điều này đòi hỏi giảng viên phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức để tìm tòi, nghiên cứu, cập nhật những thông tin và kiến thức mới mỗi ngày.
Mặt khác, vẫn còn rất nhiều những bài giảng, giờ giảng thiếu sức sống, không tạo ra được cảm hứng cho sinh viên do giảng viên chỉ sử dụng duy nhất một phương pháp thuyết trình đơn điệu. Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là ở chỗ mới chỉ tạo ra được luồng thông tin một chiều từ người dạy đến người học; sinh viên thụ động, khó tiếp thu kiến thức, không có sự sáng tạo, phụ thuộc nhiều vào kiến thức và quan điểm của người thầy. Giờ học thiếu tính đối thoại làm cho các tiết học trở nên nhàm chán, sinh viên ức chế, không có hứng thú với môn học.
Một hạn chế khá phổ biến nữa của giảng viên Lý luận chính trị là về khả năng sử dụng ngoại ngữ. Trong xu thế của nền tri thức mở hiện nay thì việc sử dụng tốt ngoại ngữ sẽ giúp giảng viên có thể tìm kiếm và khai thác được rất nhiều tài liệu nước ngoài có giá trị để nâng cao vốn kiến thức của mình. Vì thế nếu giảng viên không thành thạo việc sử dụng ngoại ngữ sẽ là rào cản rất lớn đối với họ trong việc tiếp cận kho tri thức của nhân loại.
Thứ ba, việc bố trí, sắp xếp số lượng sinh viên trong một lớp học; điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất chưa thực sự phù hợp. Một thực tế khá phổ biến hiện nay tại trường Đại học Thành Đông là tình trạng ghép lớp học các môn chung, trong đó có các môn Lý luận chính trị.
Với một lớp học quá đông (dao động từ 60 – 80 sinh viên) giảng viên rất khó có thể phát huy được tính tích cực của sinh viên trong quá trình học tập, sự tương tác giữa giảng viên với sinh viên cũng chưa hiệu quả, khó tương tác được hết với tất cả sinh viên. Cùng với đó, việc đào tạo theo học chế tín chỉ đã rút ngắn thời gian giảng dạy trên lớp của giảng viên trong khi một bộ phận sinh viên chưa thực sự tự giác trong học tập và nghiên cứu nên việc sắp xếp quá đông sinh viên trong một lớp học cũng là một nguyên nhân dẫn đến chất lượng và hiệu quả của việc dạy và học các môn Lý luận chính trị vẫn còn khá thấp.
Các phương tiện hỗ trợ giảng dạy cũng chưa được đầu tư đúng mức (hệ thống máy chiếu, âm thanh… đã xuống cấp); các đầu sách tham khảo cho các môn Lý luận chính trị trong thư viện nhìn chung còn rất sơ sài (theo thống kê từ thư viện nhà trường, số lượng sách tham khảo hiện có của tất cả các ngành khoảng trên 1.600 đầu sách nhưng số lượng tham khảo cho các môn Lý luận chính trị chỉ có 30 đầu sách). Hệ thống máy tính kết nối mạng cũng còn hạn chế.
Mặt khác, do nguồn kinh phí giành cho các hoạt động đi tham quan thực tế của một số trường chưa được chú trọng nên chưa có điều kiện tổ chức cho sinh viên đi thực tế, tham quan học tập, như: thăm các viện bảo tàng, các di tích lịch sử, các cơ sở kinh tế…
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị tại trường Đại học Thành Đông
Thứ nhất, Nhà trường cần kết hợp giữa sắp xếp giảng viên giảng dạy đúng chuyên môn với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các giảng viên Lý luận chính trị. Đồng thời, cần có kế hoạch tuyển bổ sung thêm giảng viên phụ trách, đảm nhiệm giảng dạy các học phần mà số lượng giảng viên ở học phần đó còn mỏng; rà soát lại đội ngũ giảng viên về trình độ chuyên môn được đào tạo, các chuyên môn đã được bồi dưỡng để sắp xếp họ đảm nhiệm những vị trí và giảng dạy các học phần cho phù hợp. Tránh trường hợp sắp xếp giảng viên giảng dạy không đúng chuyên ngành đào tạo hoặc những trường hợp chưa có bằng thạc sỹ đã đứng lớp.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc giảng dạy của các giảng viên; thường xuyên tổ chức dự giờ giảng của các giảng viên để góp ý, rút kinh nghiệm. Ngoài ra cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phải coi nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ bắt buộc để mỗi giảng viên có ý thức trách nhiệm, động lực trong việc trau dồi chuyên môn. Mặt khác, Nhà trường cũng cần tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ kinh phí cho giảng viên Lý luận chính trị tham gia các lớp học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các cơ sở giáo dục uy tín trong và ngoài nước; khuyến khích giảng viên trau dồi, nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học…
Thứ hai, Nhà trường cần làm tốt công tác đánh giá, xếp loại chất lượng giảng viên nói chung và giảng viên Lý luận chính trị nói riêng. Việc đánh giá phải bảo đảm được tính khách quan, trung thực; đánh giá toàn diện các mặt từ phẩm chất đạo đức đến năng lực chuyên môn, kết quả giảng dạy và nghiên cứu khoa học… Cùng với đó Nhà trường cần quan tâm, thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn Lý luận chính trị.
Ngoài những chế độ, chính sách chung theo quy định của pháp luật, các cơ sở giáo dục có thể căn cứ vào điều kiện, đặc thù của đơn vị để xây dựng thêm những quy chế, chính sách đãi ngộ đối với các nhà khoa học, các giảng viên giỏi trong việc giảng dạy và nghiên cứu Lý luận chính trị như các chính sách về tiền lương, phụ cấp thu hút…
Thứ ba, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu, học liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy các môn Lý luận chính trị. Cơ sở vật chất, trang thiết bị là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học vì thế Nhà trường cần chú ý đầu tư hơn nữa vào việc mở rộng các giảng đường, lớp học; trang bị, cải tạo hệ thống âm thanh, máy chiếu,… nâng cấp hệ thống máy tính, mạng internet, tăng tốc độ đường truyền để phục vụ cho giảng dạy và học tập vì hiện nay kiểm tra và thi trực tuyến là hình thức khá phổ biến tại các cơ sở giáo dục. Cùng với đó thư viện cũng cần phải trang bị đầy đủ học liệu (bao gồm giáo trình, bài giảng, khóa luận, luận văn, luận án, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học…) theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo và phát triển các nguồn học liệu mở để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong điều kiện mới.
Thứ tư, trong quá trình giảng dạy, giảng viên phải nắm vững được kiến thức chuyên môn, bám sát với giáo trình, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước; biết vận dụng và lồng ghép các thông tin từ thực tiễn đời sống xã hội vào bài giảng để tăng tính thuyết phục, đảm bảo nguyên tắc “Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.
Lý luận gắn liền với thực tiễn là một trong những nguyên tắc trong nghiên cứu, học tập và giảng dạy các môn Lý luận chính trị. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Xét về mặt bản chất, lý luận được hình thành từ thực tiễn, nên việc gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy không những giúp sinh viên dễ dàng tiếp thu được các nội dung giảng viên truyền đạt mà còn thấy được vai trò của lý luận đối với thực tiễn và mối liên hệ giữa chúng. Đồng thời, giúp sinh viên làm quen với việc gắn lý luận với thực tiễn ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây cũng chính là cách gắn học với hành, khắc phục tình trạng “học vẹt”, “học tủ”, vận dụng lý luận một cách rập khuôn, máy móc.
Tuy nhiên, để gắn được lý luận với thực tiễn trong giảng dạy, yêu cầu giảng viên phải có phông kiến thức thực tiễn phong phú, đa dạng (thực tiễn của ngành, của đất nước, của thế giới…). Mà muốn có vốn thực tiễn dày dạn này, giảng viên cần có óc quan sát, thu thập thông tin từ thực tiễn, từ cuộc sống bằng nhiều phương tiện, biện pháp khác nhau; phải biết phân tích, chọn lọc, tổng hợp, khái quát thông tin để tìm ra những thực tiễn phù hợp, điển hình và sinh động. Đồng thời, giảng viên phải nắm vững các nội dung lý luận mà mình giảng dạy để có sự vận dụng chính xác. Không phải tất cả các nội dung lý luận nào trong bài giảng cũng cần có liên hệ thực tế mà chỉ những vấn đề nào quan trọng, cần thiết nhấn mạnh hay muốn tăng tính thuyết phục, hứng thú cho sinh viên. Đặc biệt, cần dựa theo từng đối tượng sinh viên mỗi ngành, mỗi hệ để vận dụng và đưa những ví dụ phù hợp.
Thứ năm, giảng viên cần kết hợp linh hoạt, hiệu quả các phương pháp giảng dạy để phù hợp với từng đơn vị kiến thức và phát huy được tính tích cực, chủ động của sinh viên. Bởi hiện nay phương pháp chủ yếu của giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị là phương pháp thuyết trình độc thoại. Dễ thấy ưu điểm của phương pháp này là có thể truyền tải một lượng lớn kiến thức của bài giảng trong thời gian ngắn và đảm bảo được tính hệ thống. Tuy nhiên, phương pháp này dễ làm cho người học thụ động, nhàm chán, không phát huy được tính tích cực chủ động trong quá trình học tập.
Hơn nữa, thực tiễn giảng dạy cho thấy đối với các ngành khoa học xã hội (nhất là những môn học có tính lý luận cao như Triết học), để giờ giảng đạt được hiệu quả, phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: thuyết trình – đối thoại; nêu vấn đề, thảo luận nhóm… Tuy nhiên, giảng viên cũng cần lưu ý việc lựa chọn, sử dụng những phương pháp nào và mức độ sử dụng ra sao phải phụ thuộc vào tính đặc thù về nội dung của từng môn học, vào đối tượng người học và những điều kiện, phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho quá trình dạy và học.
Ví dụ đối với môn Triết học Mác – Lênin, khi giảng dạy cho sinh viên về nội dung của phép biện chứng duy vật với hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù giảng viên thường phải sử dụng phương pháp thuyết trình giảng giải; phân tích kèm những ví dụ cụ thể, sinh động để dẫn dắt sinh viên đi từ những cái cụ thể đến những cái khái quát bởi những khái niệm, phạm trù, quy luật trong triết học vốn dĩ rất trừu tượng và có tính khái quát cao, tương đối khó đối với sinh viên (nhất là đối với sinh viên năm thứ nhất). Hoặc khi giảng dạy học phần tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên có thể cho sinh viên xem các hình ảnh, phim tư liệu về cuộc sống đời thường và quá trình hoạt động cách mạng của Bác để làm cho bài giảng thêm sinh động và tăng hứng thú cho sinh viên đối với môn học này. Nhà thơ, nhà biên kịch người Ireland William Butler Yeats từng nói “Giáo dục không phải là việc đổ đầy một bình nước mà là thắp sáng một ngọn lửa”, vì vậy, giảng viên phải là người truyền cảm hứng, “thắp lửa” cho sinh viên để từ đó họ chủ động phát huy được sự tích cực, sáng tạo trong quá trình học tập và chiếm lĩnh tri thức.
Thứ sáu, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện hiện đại vào quá trình giảng dạy. Để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lý luận chính trị thì việc giảng viên phải sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại và biết khai thác thông tin, tư liệu trên mạng internet để phục vụ cho nội dung môn học là một yêu cầu rất cần thiết. Bởi thông qua công nghệ thông tin, giảng viên có thể truy cập và tiếp cận rất nhiều luồng thông tin bổ ích, mới mẻ để bổ sung cho bài giảng của mình thêm phong phú; đồng thời bản thân giảng viên cũng trau dồi được thêm cho mình những kiến thức hữu ích để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Mặt khác, áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp các phương tiện hiện đại vào hỗ trợ quá trình giảng dạy như trình chiếu powerpoint, video, phim tư liệu… cũng tạo ra được hứng thú học tập đối với sinh viên hơn, giúp sinh viên dễ hiểu, dễ nhớ, không còn cảm thấy học các môn Lý luận chính trị là “khó, khô, khổ” như trước đây. Từ đó, kích thích tính tích cực, chủ động của sinh viên, nâng cao chất lượng môn học.
Thứ bảy, bản thân mỗi sinh viên của Trường cũng phải nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa của các môn Lý luận chính trị từ đó xác định cho mình tinh thần, thái độ học tập nghiêm túc, tích cực, chủ động. Bởi nếu chỉ đổi mới về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy… từ phía giảng viên mà sinh viên không có sự hợp tác đổi mới thì cũng không thể đạt được hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị.
Một trong những yêu cầu cơ bản đối với sinh viên đó là phải tạo được thói quen chủ động chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu trước khi lên lớp; tăng cường việc tự học, tự nghiên cứu. Đây là yếu tố quyết định chất lượng và kết quả học tập của sinh viên bởi tự học, tự nghiên cứu không chỉ giúp sinh viên nắm vững kiến thức trên lớp, nhớ lâu, nhớ sâu hơn mà còn cập nhật, mở rộng được những kiến thức mới trên cơ sở đó góp phần tăng hứng thú học tâp, nâng cao chất lượng hiệu quả môn học.
4. Kết luận
Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị vừa là nhiệm vụ cần thiết đối với các cơ sở giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, vừa đáp ứng yêu cầu thiết thực trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Để làm được điều đó, Trường Đại học Thành Đông cần phải thực hiện toàn diện nhiều giải pháp từ phát huy vai trò của người dạy, người học đến cơ sở giáo dục; trong đó xây dựng đội ngũ giảng viên Lý luận chính trị bảo đảm về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức là vấn đề trọng tâm, cơ bản. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi các lực lượng thù địch vẫn đang tăng cường các hoạt động chống phá, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” thì việc nâng cao vai trò của đội ngũ giảng viên Lý luận chính trị nói riêng và nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị nói chung càng có ý nghĩa thiết thực.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (1995). Tập 8. H.NXB Chính trị quốc gia.
4. Bộ Chính trị (2014). Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân.
5. Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học năm 2012.