ThS. Phạm Quang Hải
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
TS. Nguyễn Mạnh Hổ
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
ThS. Trịnh Thị Hồng Thái
Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh
(Quanlynhanuoc.vn) – Quan điểm về phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một nội dung quan trọng trong lý luận phân phối của C. Mác. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo quan điểm về phân phối cho tiêu dùng cá nhân của C. Mác là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta hoàn thiện chính sách phân phối trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, thực hiện phát triển bền vững nền kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ khóa: Quan điểm của C. Mác về phân phối; phân phối cho tiêu dùng; tiêu dùng cá nhân; kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1. Đặt vấn đề
Phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một bộ phận của phân phối tổng sản phẩm xã hội, là biểu hiện trực tiếp của lợi ích kinh tế mà các chủ thể kinh tế nhận được trong quá trình tái sản xuất xã hội. Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam còn tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế với nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh, nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Do đó, giải quyết tốt vấn đề này là cơ sở để khuyến khích các chủ thể sản xuất, kinh doanh và người lao động tích cực đổi mới sáng tạo, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.
2. Quan điểm của C. Mác về phân phối cho tiêu dùng cá nhân
Quan điểm về phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là một nội dung quan trọng trong lý luận phân phối của C. Mác. Theo C. Mác, phân phối cho tiêu dùng cá nhân là phân phối một phần tổng sản phẩm xã hội cho tiêu dùng của các giai cấp, các chủ thể kinh tế. Tổng sản phẩm xã hội về mặt hiện vật là tổng số hàng hóa sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội được sản xuất ra trong một năm được phân thành: “bộ phận giá trị đại biểu cho tư bản bất biến (c) bị tiêu dùng đi trong quá trình sản xuất…, và bộ phận giá trị nữa do toàn bộ lao động trong năm thêm vào sản phẩm… Vậy, giống như giá trị của bất cứ hàng hóa cá biệt nào, giá trị của tổng sản phẩm hằng năm trong mỗi khu vực cũng phân thành c + v + m” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1994)1. Theo đó, phân phối tổng sản phẩm xã hội là phân phối tổng số sản phẩm và giá trị sản phẩm mà xã hội sản xuất ra nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Phân phối tổng sản phẩm xã hội bao gồm cả phân phối cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân: “Tổng sản phẩm hằng năm của xã hội được phân giải thành hai khu vực lớn: (1) Những vật phẩm tiêu dùng, những hàng hóa có hình thức trong đó chúng đi vào tiêu dùng cá nhân của giai cấp các nhà tư bản và giai cấp công nhân; (2) Tư liệu sản xuất, những hàng hóa có hình thức trong đó chúng phải đi vào, hoặc ít ra có thể đi vào, tiêu dùng sản xuất” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 2001)2. Như vậy, phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một bộ phận của phân phối tổng sản phẩm xã hội, phản ánh lợi ích kinh tế mà mỗi chủ thể kinh tế nhận được khi tham gia vào quá trình sản xuất.
Trước hết, phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một bộ phận của phân phối tổng sản phẩm xã hội. Để làm rõ sự phân chia tổng sản phẩm xã hội, C. Mác đã đưa ra sơ đồ phân phối tổng sản phẩm, bao gồm: (1) Những khoản khấu trừ phục vụ cho sản xuất: “Một là, phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng. Hai là, phần phụ thêm để mở rộng sản xuất. Ba là, một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm đề phòng những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra…” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)3. (2) Các khoản tiêu dùng cho xã hội: “Một là, những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất… Hai là, những khoản dùng để cùng chung nhau thỏa mãn những nhu cầu, như trường học, cơ quan y tế… Ba là, quỹ cần thiết để nuôi những người không có khả năng lao động…” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)4. Cuối cùng là phân phối cho tiêu dùng cá nhân: “bây giờ, mới tới cái phần những vật phẩm tiêu dùng đem chia cho cá nhân những người sản xuất của tập thể” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)5. Như vậy, để bảo đảm cho xã hội phát triển, tổng sản phẩm xã hội được khấu trừ thành nhiều phần khác nhau. Trong đó, phân phối cho tiêu dùng cá nhân là phần sản phẩm đã được phân chia cho những người tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, bảo đảm cho họ sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
Đồng thời, phân phối cho tiêu dùng cá nhân trước hết phụ thuộc vào kết quả sản xuất vì: “Bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất…, vì người ta chỉ có thể đem phân phối những kết quả của sản xuất thôi” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1993)6 và việc phân phối sản phẩm này được quyết định bởi tình hình sản xuất: “người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và những sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)7. Đó chính là việc phân chia những sản phẩm đã được sản xuất ra cho các cá nhân với các tư cách khác nhau theo những tỷ lệ xác định mà cá nhân đó tham gia vào việc sản xuất. Việc phân phối này được xác định thông qua thời gian lao động mà cá nhân người sản xuất đã cung cấp cho xã hội: “thời gian lao động, đồng thời cũng dùng để đo phần tham gia của cá nhân người sản xuất vào lao động chung và do đó, cả cái phần tham dự của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản phẩm” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 2002)8.
Mặt khác, phân phối cho tiêu dùng cá nhân với tư cách là một bộ phận của quan hệ phân phối nói chung đã thể hiện mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất. Phân phối cho tiêu dùng cá nhân chịu sự quy định của điều kiện kinh tế – xã hội: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)9. Vì vậy, trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, việc phân phối này phản ánh sự hưởng thụ của mỗi cá nhân một phần sản phẩm tạo ra bởi những điều kiện sản xuất và do đó chịu sự quyết định bởi tính chất của phương thức sản xuất thống trị: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)10. Theo đó, trong mỗi phương thức sản xuất khác nhau được đặc trưng bởi trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và bản chất của quan hệ sản xuất thống trị dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất đặc trưng sẽ tồn tại các phương thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân khác nhau.
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phân phối cho tiêu dùng cá nhân được thực hiện thông qua mua – bán hàng hóa sức lao động và phân chia phần giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và được biểu hiện trong mối quan hệ giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội, bao gồm: tư sản, địa chủ và lao động làm thuê. Đó là sự phân chia giá trị mới được tạo ra cho những người sở hữu những yếu tố sản xuất khác nhau dưới các hình thức: lợi nhuận, địa tô và tiền công: “Những người chỉ sở hữu có sức lao động, những kẻ sở hữu tư bản và những kẻ sở hữu ruộng đất, mà các nguồn thu nhập tương ứng là tiền công, lợi nhuận và địa tô, tức là công nhân làm thuê, nhà tư bản và địa chủ” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1994)11. Trong đó, phần tiêu dùng cá nhân của giai cấp tư sản và địa chủ chính là phần lao động của lao động làm thuê bị giai cấp tư sản chiếm đoạt, còn phần tiêu dùng cá nhân của lao động làm thuê là lao động được trả công hay là tiền công. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến: “Sự bần cùng hóa của người công nhân và sự giàu lên của nhà tư bản phù hợp với nhau, diễn ra ăn nhịp với nhau” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 2000)12, do đó, tạo điều kiện để nâng cao tuyệt đối mức phân phối tiêu dùng của giai cấp tư sản và địa chủ, đồng thời giảm mức phân phối tiêu dùng của lao động làm thuê.
Trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất xã hội được “tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)13. Nền sản xuất xã hội dựa trên sự phát triển cao của lực lượng sản xuất sẽ sản xuất ra đầy đủ sản phẩm để thực hiện phân phối thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy, tổng sản phẩm xã hội được phân chia cho tiêu dùng cá nhân không phải thông qua xác định số lượng lao động mà người đó cung cấp cho xã hội và dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá nữa mà “được thay bằng việc sử dụng chung tất cả mọi công cụ sản xuất và việc phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận chung, tức là bằng cái mà người ta gọi là sự cộng đồng về tài sản” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen,1995)14.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản: “… là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)15. Theo đó, trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất nên tất yếu còn tồn tại nhiều phương thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân khác nhau, bao gồm phương thức phân phối của xã hội cũ và phương thức phân phối của xã hội mới.
Phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản chủ yếu là phân phối theo lao động trên cơ sở trao đổi ngang giá: “Đối với việc phân phối những vật phẩm ấy giữa từng người sản xuất thì thống trị ở đây, cũng vẫn là cái nguyên tắc trong việc trao đổi những hàng hóa – vật ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)16.
Tuy nhiên, theo C. Mác, mặc dù việc phân phối này vẫn trên cơ sở “cái quyền tư sản” song khác về chất so với phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa. Nếu trong chủ nghĩa tư bản, phân phối cho tiêu dùng trên cơ sở trao đổi ngang giá sức lao động tạo ra lợi thế riêng cho giai cấp tư sản và bất lợi cho giai cấp công nhân trong mối quan hệ tư bản và tiền công bằng cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội: “Công nhân bỏ ra nhiều, nhà tư bản chi ra ít, điều đó là do tính chất của sự trao đổi đó quyết định” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)17 thì trong thời kỳ quá độ, sự phân phối này được thực hiện thông qua trao đổi ngang giá trong điều kiện trung bình: “trao đổi những vật ngang giá chỉ tồn tại theo những điều kiện trung bình, chứ không phải cho từng trường hợp riêng biệt” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)18. Theo đó, người sản xuất sẽ nhận được phân phối bằng đúng lượng lao động mà người đó cung cấp cho xã hội: “Anh ta nhận của xã hội một cái phiếu chứng nhận rằng anh ta đã cung cấp một số lao động là bao nhiêu đó (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta làm cho các quỹ xã hội) và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho của xã hội ra một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với một số lượng lao động như thế. Cùng một lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)19.
3. Vận dụng quan điểm phân phối cho tiêu dùng cá nhân của C. Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Từ quan điểm về phân phối cho tiêu dùng cá nhân của C. Mác trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, có thể khẳng định, phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một bộ phận của phân phối tổng sản phẩm xã hội, phụ thuộc vào kết quả sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất thống trị; đồng thời, phản ánh lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất nên tất yếu còn tồn tại đa dạng nhiều hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân, trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu. Do vậy, quá trình thực hiện phân phối cho tiêu dùng cá nhân phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan và bảo đảm người lao động được thụ hưởng xứng đáng với lao động mà họ đã cung cấp cho xã hội. Vận dụng quan điểm phân phối cho tiêu dùng cá nhân của C. Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường có thể thực hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Phân phối cho tiêu dùng cá nhân là phân chia kết quả sản xuất cho tiêu dùng của mỗi chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất và phụ thuộc vào số lượng, chất lượng của cải vật chất mà xã hội sản xuất ra. Như vậy, tiền đề để thực hiện công bằng, bình đẳng trong phân phối cho tiêu dùng cá nhân là xã hội phải sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng cao. Nhưng muốn nâng cao tổng sản phẩm xã hội thì không thể không nâng cao năng suất lao động xã hội. Điều đó chỉ có thể được hiện thực hóa khi nâng cao trình độ lực lượng sản xuất. Theo đó, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là điều kiện quyết định tới phân phối công bằng, bình đẳng cho tiêu dùng cá nhân.
Tuy nhiên, sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội dưới tác động của lực lượng sản xuất hiện đại mang tính xã hội hóa cao song quan hệ sản xuất vẫn dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu thì phân phối kết quả sản xuất cho tiêu dùng cá nhân vẫn sẽ mang lại lợi ích cho một số ít người, còn đa số người lao động vẫn bị bần cùng hóa. Do vậy, trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Một mặt, tạo điều kiện, cơ sở, tiền đề cho sự phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác, tác động tích cực đến tinh thần, thái độ của các chủ thể kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động, từ đó nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ.
Theo đó, để bảo đảm công bằng, bình đẳng về phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường cần phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dựa trên nền tảng của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đồng thời, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó trọng tâm là hoàn thiện thể chế về sở hữu, thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh, phát triển đồng bộ các loại thị trường, yếu tố thị trường, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm bảo đảm mọi thành viên trong xã hội được thụ hưởng đầy đủ thành quả lao động của mình và thành tựu phát triển của đất nước.
Thứ hai, nhận thức đúng các quy luật tác động đến phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là: “Là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021)20. Như vậy, phân phối cho tiêu dùng cá nhân chịu sự chi phối của các quy luật thị trường và mục tiêu XHCN.
Phân phối cho tiêu dùng cá nhân vận động theo các quy luật của kinh tế thị trường trên cơ sở nguyên tắc trao đổi ngang giá. Nhận thức và vận dụng đúng các quy luật của kinh tế thị trường và để thực hiện lợi ích kinh tế của cá nhân đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải không ngừng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực lao động của bản thân phù hợp và đáp ứng ngày càng tốt hơn với nhu cầu của thị trường. Đồng thời, dưới tác động của cơ chế thị trường, các nguồn lực được vận động thông thoáng, có hiệu quả góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo điều kiện để người lao động được thụ hưởng thành quả lao động theo đúng sự đóng góp của mình.
Phân phối cho tiêu dùng cá nhân có vị trí quan trọng trong thực hiện mục tiêu XHCN. Xét đến mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa cá nhân, tập thể và xã hội trong nền kinh tế thị trường thì lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất, thúc đẩy các chủ thể tham gia một cách tích cực vào các quá trình kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm tạo ra động lực khuyến khích các chủ thể làm giàu hợp pháp; đồng thời, bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chính sách tiền công phù hợp với cơ chế thị trường bảo đảm tiền công thực sự là giá cả của sức lao động, lấy tăng năng suất lao động làm cơ sở để tăng tiền công “theo hướng Nhà nước quy định mức lương tối thiểu, đồng thời tăng cường cơ chế thương lượng, thỏa thuận tiền lương theo nguyên tắc thị trường. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021)21.
Thứ ba, thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN .
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế” (Ban Chấp hành Trung ương, 2017)22, do đó, có nhiều chủ thể và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Mỗi chủ thể sản xuất và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh lại có những lợi ích kinh tế khác nhau dựa trên quan hệ sở hữu khác nhau về các nguồn lực kinh tế của xã hội, vì vậy, có nhiều phương thức khác nhau trong phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Trong đó, “Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội” (Ban Chấp hành Trung ương, 2017)23. Đây là sự cụ thể hóa quan điểm của C. Mác về phân phối cho tiêu dùng cá nhân trong thời kỳ quá độ “còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra”.
Với tư cách là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phân phối theo lao động thể hiện rõ bản chất, mục đích của nền sản xuất XHCN là dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở các mức độ khác nhau, người lao động đồng thời là người sở hữu tư liệu sản xuất, nên họ có quyền quyết định phân phối, phân phối vì lợi ích và công lao đóng góp của mình đã cống hiến. Cơ sở để phân phối theo lao động là số lượng, chất lượng lao động, điều kiện, môi trường lao động, tính chất lao động.
Tuy nhiên, phân phối theo lao động mặc dù có sự bình đẳng vì cùng sử dụng một thước đo giống nhau là lao động, song cũng dẫn đến sự không bình đẳng trong thu nhập và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế. Và theo C. Mác: “Đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995)24. Để hạn chế những thiếu sót của phân phối theo lao động, bảo đảm công bằng, bình đẳng về phân phối cho tiêu dùng cá nhân cần thực hiện phân phối theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội thông qua hình thành và sử dụng các quỹ phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội, như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…, nhằm tạo cơ hội để người lao động được thụ hưởng đầy đủ kết quả lao động mà họ đã cung cấp cho xã hội.
Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế lại sở hữu một phần các nguồn lực xã hội, như: vốn, tài sản, trí tuệ… Vì vậy, để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế, gia tăng tổng sản phẩm xã hội cần phải coi trọng khuyến khích phát triển hình thức phân phối cho tiêu dùng theo các nguồn lực mà các chủ thể đã đóng góp vào quá trình sản xuất, kinh doanh bảo đảm cho các chủ thể đó được thừa hưởng lợi ích từ các nguồn lực đó đem lại.
4. Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự tồn tại đa dạng các hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân là một tất yếu khách quan. Đó là sự phân chia một phần kết quả sản xuất cho tiêu dùng của người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cơ chế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN. Nhận thức rõ vấn đề này có vai trò rất quan trọng trong khơi thông các nguồn lực đất nước, phát huy tối đa nhân tố con người vào hoàn thành các mục tiêu chiến lược quốc gia vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chú thích:
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994). Toàn tập. Tập 24. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 580.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (2001). Toàn tập. Tập 50. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 207.
3, 4, 5, 9, 10, 13, 15, 16, 17, 18, 19, 24. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1995). Toàn tập. Tập 19. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 31 – 32, 32, 32 – 33, 36, 36 – 37, 33, 32, 34, 366, 34, 34, 36.
6. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1993). Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 870.
7. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1995). Toàn tập. Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 371.
8. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (2002). Toàn tập. Tập 23. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 125.
11. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994). Toàn tập. Tập 25, phần 2. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 643.
12. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (2000). Toàn tập. Tập 49. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 210
14. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1995). Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 472
20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 128, 128.
22, 23. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2017). Nghị quyết số 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.