Nâng cao chất lượng đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học hiện nay

ThS. Nguyễn Thị Phương Lan
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng các công cụ quản lý của nhà nước để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm hướng tới sự phát triển kinh tế – xã hội mang tính bền vững. Đào tạo ngành Quản lý nhà nước hiện nay nhằm tạo ra nguồn nhân lực xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển, luôn được các cơ sở đào tạo quan tâm và không ngừng nâng cao chất lượng của quá trình đào tạo.

Từ khoá: Quản lý nhà nước, quản lý xã hội, chất lượng đào tạo, bậc đại học, ngành Quản lý nhà nước.

1. Đặt vấn đề

Nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu phấn đấu của mỗi cơ sở đào tạo, vì đối tượng người học – sản phẩm đầu ra của cơ sở đào tạo, nhằm đáp ứng tốt nhất nguồn nhân lực xã hội theo yêu cầu hội nhập và phát triển. Năng lực làm việc của mỗi cá nhân được xác định cơ bản ở 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ của mỗi người.

Nâng cao năng lực làm việc của cá nhân người lao động thông qua quá trình đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng hướng tới việc cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ổn định và bền vững. Tiếp cận theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa thực tế và nhu cầu là một trong những cách tiếp cận hiện nay trong quá trình xác định nhu cầu đào tạo nhằm nâng cao năng lực làm việc của mỗi người. Qua đó, các cơ sở đào tạo không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đối với các ngành đào tạo ở các bậc học nói chung và đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học (4 năm) nói riêng.

2. Bối cảnh hoạt động đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học

Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng các công cụ quản lý của nhà nước (pháp luật, kế hoạch hóa, chính sách và các công cụ khác) để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện nhằm phục vụ Nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.      

So với các hoạt động quản lý của các tổ chức khác, quản lý nhà nước có đặc điểm:  

Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước được trao quyền, gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.

Thứ hai, đối tượng quản lý của Nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài lãnh thổ quốc gia.

Thứ ba, quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao…

Thứ tư, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng các công cụ quản lý như pháp luật, kế hoạch hóa, chính sách và các công cụ quản lý khác để quản lý xã hội.

Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.

Hoạt động quản lý nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, rất cần có đội ngũ nhân lực

Trong hoạt động đào tạo đại học, ngành Quản lý nhà nước là một ngành thuộc lĩnh vực của khoa học quản lý, chuyên nghiên cứu về cách thức quản lý và điều hành của Nhà nước đối với các hoạt động trong đời sống kinh tế – xã hội nhằm hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Trong mã ngành đào tạo ở bậc đại học, ngành Quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực khoa học chính trị được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định trong Thông tư số 09/2022/TT-BGDĐT ngày 06/6/2022 quy định Danh mục thống kê ngành Đào tạo của giáo dục đại học.

Đặc điểm chính của ngành Quản lý nhà nước:

(1) Ngành học hướng tới mục tiêu chung là bảo đảm sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững dưới sự quản lý của Nhà nước.

(2) Do Nhà nước quản lý mọi hoạt động kinh tế – xã hội, thông qua bộ máy nhà nước nên ngành học thường liên quan đến các hoạt động của cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật.

(3) Nhà nước quản lý toàn diện mọi mặt, mọi hoạt động kinh tế – xã hội, nên ngành học có tính đa ngành, đa lĩnh vực, liên quan đến nhiều chuyên ngành khác nhau như kinh tế, chính trị, pháp luật, kỹ thuật, văn hóa, xã hội,…

(4) Hoạt động quản lý nhà nước có tính tập trung và hướng tới phát triển bền vững, với mục tiêu tối ưu hóa tài nguyên và bảo đảm sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, nên ngành học có tính toàn diện và đòi hỏi sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương để đạt được mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế – xã hội.

Ngành Quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Nhà nước nhằm hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững, thể hiện trong các hoạt động sau:

(1) Nhà nước quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh tế – xã hội, thông qua hoạt động của các tổ chức nhà nước và các tổ chức liên quan, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

(2) Nhà nước thiết lập, triển khai các chính sách và quy định, bảo đảm quyền và lợi ích của cộng đồng, của cá nhân và tổ chức, theo quy định của pháp luật.

(3) Nhà nước tạo môi trường, điều kiện và thúc đẩy năng lực của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

(4) Nhà nước tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên của xã hội và bảo đảm sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế – xã hội và môi trường.

(5) Nhà nước quản lý và phân phối nguồn lực công, bảo đảm sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

(6) Nhà nước hỗ trợ hoạt động của các tổ chức kinh tế – xã hội, bảo đảm cân bằng giữa sự phát triển của các tổ chức và lợi ích chung của cộng đồng.

(7) Nhà nước nghiên cứu và phát triển các chính sách, giải pháp quản lý hiệu quả, tạo ra những giá trị gia tăng cho xã hội.

Như vậy, ngành Quản lý nhà nước có vị trí đặc biệt trong hệ thống các ngành đào tạo ở bậc đại học và có tầm quan trọng rất lớn đối với việc bảo đảm sự phát triển bền vững và hài hòa của xã hội, bảo vệ quyền lợi và nhu cầu hợp pháp của cộng đồng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Ngành Quản lý nhà nước được đào tạo ở bậc đại học tại nhiều nước trên thế giới, như: Đại học Harvard (Mỹ); Đại học Oxford (Anh); Đại học Cambridge (Anh); Đại học Tokyo (Nhật Bản); Đại học Peking (Trung Quốc); Đại học Sydney (Australia); Đại học Quốc gia Hàn Quốc (Hàn Quốc); Đại học Bách khoa Paris (Pháp)…

Ở Việt Nam, có nhiều cơ sở đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học, ở các trường đại học công lập và đại học tư thục, như: Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh; Trường Đại học Quốc gia Đà Nẵng; Trường Đại học Ngoại thương; Trường Đại học Tài chính – Marketing; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Học viện Hành chính Quốc gia; Học viện Ngoại giao; Học viện An ninh nhân dân; Học viện Thanh Thiếu niên; Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Trường Đại học Thành Đô…

Mỗi cơ sở đào tạo luôn xây dựng tầm nhìn, mục tiêu, chiến lược đào tạo riêng của mình. Vì vậy, chương trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước được thiết kế khác nhau ở mỗi cơ sở đào tạo (về số lượng tín chỉ đào tạo, về môn học được đào tạo, về cách thức đào tao…). Nhưng dù có đặc điểm riêng khác nhau ở mỗi trường thì đầu ra của ngành Quản lý nhà nước cần có sự thống nhất về năng lực làm việc cơ bản của người học trong ngành này sau khi ra trường.

Hiện nay, trong bối cảnh mới, khi nhiều cơ sở đào tạo (công và tư) đều tham gia vào quá trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học, thì những thách thức hay cơ hội luôn đặt ra với các cơ sở đào tạo, như:

(1) Thị trường việc làm khó khăn, sinh viên ngành Quản lý nhà nước ra trường không chỉ làm trong khu vực công (do các cơ quan nhà nước đang trong quá trình cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, giảm biên chế, giảm nhân sự). Việc đào tạo nâng cao năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) cho sinh viên để sau khi ra trường, đáp ứng được nhu cầu của xã hội là rất cần thiết và quan trọng.

(2) Quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đặt ra rất nhiều những kiến thức và kỹ năng mới đối với người lao động, đặc biệt trong hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. Những quan niệm quản lý mới, những cách tiếp cận về quản lý sự thay đổi, những phương pháp và lý thuyết quản lý mới và sự điều hành của Nhà nước ở các quốc gia sao cho hiệu quả trong bối cảnh hội nhập về kinh tế, văn hóa, xã hội.

(3) Sự biến đổi khí hậu, sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, sự thiếu hụt nguồn nhân lực ở các quốc gia đặt ra những “bài toán” quản lý rất cần Nhà nước giải quyết nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Điều này cũng đặt ra vấn đề cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực trong tương lai, đặc biệt là đào tạo ngành Quản lý nhà nước cần đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của thời đại.

(4) Sự dịch chuyển lao động trong nước và quốc tế hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ do quá trình toàn cầu hóa và chính sách thu hút lao động của các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, việc đào tạo về kiến thức quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng đã không còn mới như trước đây, nên việc thu hút người học vào ngành Quản lý nhà nước đã là việc khó nếu chương trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước không có sự nổi bật và chất lượng đào tạo không được nâng cao.

(5) Sự tham gia của nhiều cơ sở đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học đã làm cho các cơ sở đào tạo có tính cạnh tranh cao để thu hút người học. Điều này đặt ra thách thức rất lớn cho các cơ sở đào tạo nhưng cũng chính là cơ hội để các cơ sở đào tạo khẳng định chất lượng đầu ra của mình. Từ đó, thông qua các hoạt động trong việc xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo và kiểm soát chất lượng đào tạo đối với ngành Quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện chương trình đào tạo cũng như quá trình đào tạo của mình.

3. Quá trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học

(1) Về đối tượng người học trước khi đào tạo:

Để nâng cao chất lượng đào tạo ngành Quản lý nhà nước, việc xác định đối tượng học ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học là rất quan trọng. Cụ thể:

Đối tượng là những học sinh mới tốt nghiệp phổ thông muốn theo học kiến thức về quản lý và quản lý nhà nước, muốn làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước và làm quản lý trong các tổ chức thuộc khu vực tư. Đối tượng này chưa có sự va chạm trong thực tế, nên việc học tập, nghiên cứu nhằm có kiến thức cũng như kỹ năng về lãnh đạo và quản lý, sự hiểu biết rõ hơn về cơ chế quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội sẽ được đào tạo trong quá trình học ngành này.

Đối tượng là những sinh viên đã tốt nghiệp các ngành học khác, có mong muốn học thêm ngành Quản lý nhà nước (bằng 2 hoặc song bằng). Đối tượng này có thời gian đào tạo qua một ngành học khác sẽ có các kiến thức và kỹ năng cơ bản được đào tạo ở bậc đại học nhưng việc hiểu biết về hoạt động quản lý, hoạt động lãnh đạo nói chung và quản lý nhà nước cần được bổ sung và đào tạo chuyên sâu hơn.

Đối tượng là những người quan tâm đến công tác nghiên cứu, đặc biệt là về quản lý công, chính sách công và cần hiểu rõ hơn về quy trình, phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Đối tượng là những người muốn có sự chuẩn bị tốt để đóng vai trò quản lý, lãnh đạo trong các tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp.

Đối tượng là những người mong muốn đóng góp cho xã hội, tham gia vào các hoạt động của chính phủ và các tổ chức nhà nước.

Như vậy, đối tượng học hoặc muốn học ngành Quản lý nhà nước rất đa dạng và phong phú. Họ có thể sẽ hoặc đang làm việc trong các tổ chức khu vực công hoặc khu vực tư. Tuy nhiên, ngành Quản lý nhà nước phù hợp với những người mong muốn hiểu rõ hơn về hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế – xã hội, về cơ chế quản lý nhà nước; phù hợp với những người mong muốn đóng vai trò quản lý và lãnh đạo trong các tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp, hoặc những người muốn đóng góp cho xã hội, tham gia vào các hoạt động điều hành của Chính phủ và tổ chức nhà nước.

(2) Tầm nhìn, chiến lược, định hướng của nhà lãnh đạo, quản lý của cơ sở đào tạo:

Nhà lãnh đạo, quản lý trong tổ chức luôn có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của tổ chức đó. Tầm nhìn, chiến lược, định hướng của cơ sở đào tạo sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến cách thức tổ chức đào tạo, quy trình đào tạo, chất lượng đào tạo và tầm ảnh hưởng của cơ sở đào tạo đối với xã hội.

(3) Quá trình đào tạo cần có các yếu tố:

Một là, hệ thống cơ sở vật chất của cơ sở đào tạo, bao gồm: giảng đường, thư viện, phòng thực nghiệm (thực hành bài tập tình huống), khu làm việc của giảng viên, của các đơn vị, bộ phận hỗ trợ đào tạo, và các cơ sở vật chất khác phục vụ cho quá trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực làm việc của người học, bao gồm cả trí lực và sức khỏe để đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời kỳ hội nhập.

Ngành Quản lý nhà nước như đã xác định là ngành khoa học quản lý, liên quan mật thiết đến nhiều ngành khoa học khác như luật học, chính trị học, công nghệ thông tin, chính sách công… Đồng thời, đây cũng là ngành mang tính ứng dụng thực tiễn cao, vì vậy, cơ sở vật chất chú trọng đến hệ thống thư viện với nguồn tài liệu phong phú về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau ở nhiều quốc gia, là yếu tố cần thiết giúp cho quá trình đào tạo được thuận lợi và có sơ sở nâng cao chất lượng đào tạo.

Hai là, chương trình đào tạo của cơ sở đào tạo phụ thuộc vào quan điểm, hướng đi và tầm nhìn của mỗi cơ sở đào tạo trong đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học. Tuy nhiên, việc thiết kế chương trình đào tạo cũng phải đáp ứng theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo với các học phần cơ sở, các học phần ngành và chuyên ngành, các học phần bắt buộc và tự chọn.

Từ đặc điểm, vị trí và tầm quan trọng của ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học, tùy theo chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo, ngành Quản lý nhà nước ở mỗi cơ sở đào tạo sẽ có nội dung học khác nhau, số lượng môn học và các môn học khác nhau. Nhưng có những môn học cơ bản bắt buộc phải có, nhằm nâng cao năng lực của sinh viên sau khi ra trường, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đó là môn học thuộc các kiến thức về:

(1) Khoa học chính trị: học về hệ thống chính trị của quốc gia, hệ thống các cơ quan nhà nước và cơ chế quản lý.

(2) Kinh tế học: học về các quy luật kinh tế, các mô hình kinh tế, cách thức can thiệp và điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường ở các quốc gia có các chế độ chính trị khác nhau.

(3) Khoa học xã hội: học về xã hội và văn hóa của quốc gia, bao gồm cả lịch sử và văn hóa.

(4) Luật học: học về hệ thống pháp luật của quốc gia, cách thức triển khai và thực hiện các quy định pháp luật.

(5) Quản lý học: học về kỹ năng quản lý tổ chức, lãnh đạo, điều hành 1 tổ chức, 1 hệ thống. Học về quản lý tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội… Học về quản lý sự thay đổi, phát triển tổ chức ở khu vực công.

(6) Khoa học dữ liệu: học về cách sử dụng dữ liệu để phân tích và đưa ra quyết định hiệu quả trong việc quản lý, phát triển kinh tế, xã hội.

(7) Công nghệ thông tin: học về công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước.

(8) Chính sách công: học về các chính sách và quy định của Chính phủ về việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường.

Ngoài ra, chương trình đào tạo còn cần phải cung cấp cho sinh viên các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp; kỹ năng đàm phán, thuyết phục; kỹ năng phản biện, tư duy logic, tư duy hệ thống; kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề; kỹ năng quản lý, lãnh đạo và làm việc nhóm; kỹ năng hội nhập và làm việc trong môi trường quốc tế… Đồng thời, qua quá trình đào tạo, người học hình thành được thái độ nghiêm túc, đúng đắn trong nghề nghiệp sau này, đặc biệt trong hoạt động quản lý nhà nước khi người học được tuyển dụng, tham gia làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức thuộc khu vực công. 

Đội ngũ giảng viên của cơ sở đào tạođóng vai trò quan trọng nhất trong các yếu tố của quá trình đào tạo. Vì họ là những người trực tiếp thực hiện hoạt động đào tạo (giảng dạy, hướng dẫn, hỗ trợ…) đối với người học về kiến thức, kỹ năng và quá đó hình thành thái độ của người học đối với ngành học được đào tạo. Ngoài ra, phẩm chất, đạo đức, tác phong của người giảng viên sẽ có ảnh hưởng nhất định đến người học trong quá trình đào tạo.

Các tổ chức, bộ phận, đơn vị hỗ trợ đào tạolà yếu tố không thể thiếu được trong các cơ sở đào tạo. Sự thành công của quá trình đào tạo nhằm hướng đến chất lượng đào tạo không thể không kể đến các đơn vị, bộ phận hỗ trợ như đơn vị quản lý đào tạo, truyền thông đào tạo, kiểm định chất lượng đào tạo,…

Việc liên kết phối hợp với các cơ sở thực tập là các cơ quan, tổ chức nhà nước, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức khu vực tư cũng là hoạt động hỗ trợ cần thiết đối với người học ngành Quản lý nhà nước, ngành học mang tính thực tiễn cao. Qua thực hiện thực tập tại các cơ sở liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, người học sẽ có thêm sự trải nghiệm thực tế và kiểm nghiệm lại các kiến thức đã học vào thực tế để hiểu biết và nâng cao được năng lực cá nhân trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

(4) Năng lực làm việc của người học sau khi được đào tạo:

Đầu ra của cơ sở đào tạo là người học sau khi được đào tạo. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta hiện nay, đồng thời, bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã đặt ra rất nhiều cơ hội và thách thức đối với người học sau khi ra trường. Sự cạnh tranh cao của nền kinh tế thị trường về việc làm, cũng như cơ hội của người lao động trong bối cảnh hội nhập, đòi hỏi người lao động phải có kiến thức, kỹ năng và thái độ tích cực đối với công việc.

Ngành Quản lý nhà nước cần đào tạo được người học sau khi ra trường có năng lực làm việc thích ứng với tổ chức. Cụ thể cần có kiến thức về quản lý, lãnh đạo, luật pháp, chính trị, kinh tế – xã hội…; đồng thời, có kỹ năng phân tích và xử lý thông tin, dữ liệu, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng quản lý điều hành hoạt động của tổ chức… trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, người học ngành Quản lý nhà nước phải có thái độ vì lợi ích chung của Nhà nước, lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích chung của toàn xã hội, đặt trên lợi ích của cá nhân để làm việc và sống theo pháp luật.

Quá trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước cần và thực hiện tốt để nâng cao được năng lực của người học ngành này, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học

Thứ nhất, rà soát lại toàn bộ chương trình đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học, đặt các học phần đào tạo trong mối quan hệ tương quan với các ngành học khác trong cùng cơ sở đào tạo để có tính thống nhất, hệ thống và tạo điều kiện thuận lợi cho người học khi có nhu cầu học song bằng, học bằng 2 theo hướng tiếp cận về nâng cao năng lực người học.

Thứ hai, xây dựng chương trình đào tạo hướng vào 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

Về kiến thức, các nội dung kiến thức được thiết kế cho 6 nhóm khoa học cơ bản: khoa học chính trị; khoa học luật; khoa học lãnh đạo, quản lý, chính sách; khoa học kinh tế; khoa học xã hội; khoa học dữ liệu.

Về kỹ năng: việc hình thành kỹ năng của người học sẽ thông qua các bài tập thực hành trên lớp ở từng môn học như kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm (qua hoạt động thảo luận nhóm), kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề (qua bài tập tình huống), kỹ năng quản lý tổ chức (qua hoạt động nhóm)… Không nhất thiết có môn học đào tạo kỹ năng riêng. Vì thời gian đào tạo sẽ tập trung trang bị những kiến thức cơ bản cho người học để sau khi ra trường có các kỹ năng cần thiết cho công việc.

Về thái độ, việc hình thành thái độ đúng và tích cực đối với ngành quản lý nhà nước đòi hỏi quá trình đào tạo luôn hướng vào mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình. Quá trình này được hình thành trong từng môn học (quá các giờ học, thảo luận, bài tập tình huống, đóng vai…) và có sự thống nhất giữa các môn học trong cả chương trình đào tạo.

Thứ ba, quá trình đào tạo luôn có sự phối kết hợp giữa các bộ phận hỗ trợ và đơn vị chuyên môn để bảo đảm chất lượng đào tạo cũng như nâng cao năng lực của người học sau khi ra trường nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đặc biệt, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo (trường đào tạo) với các cơ sở nghiên cứu (viện nghiên cứu) và cơ sở thực tiễn (tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp) để hoạt động đào tạo được gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên môn ở các nhóm ngành khoa học cơ bản (tôn trọng chuyên ngành đào tạo của giảng viên, chú trọng đến kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng giảng dạy của giảng viên).

Thứ năm, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị quản lý đào tạo, hỗ trợ đào tạo với các đơn vị chuyên môn và các tổ chức/bộ phận hỗ trợ khác như câu lạc bộ sinh viên chuyên ngành, cán bộ tư vấn học tập (tư vấn, hướng dẫn quá trình học tập), bộ phận hỗ trợ việc làm (giới thiệu việc làm cho sinh viên); gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo với các tổ chức/doanh nghiệp, nhằm hướng vào mục tiêu chung:

Cung cấp và trang bị những kiến thức cơ bản: ngành Quản lý nhà nước yêu cầu sinh viên phải nắm vững kiến thức cơ bản về văn hóa chính trị, kinh tế, luật học, triết học và lý thuyết chính trị.

Rèn luyện và phát triển kỹ năng mềm: sinh viên cần phát triển kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng quản lý thời gian… để có thể thích nghi tốt với môi trường học tập và làm việc trong tương lai, thông qua hoạt động của các câu lạc bộ sinh viên.

Xây dựng các chương trình trải nghiệm thực tế: sinh viên cần tham gia các hoạt động thực tế như thực tập, nghiên cứu khoa học và dự án để có cơ hội áp dụng kiến thức đã học vào thực tế và phát triển kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

Hình thành và phát triển năng lực cá nhân trong nghiên cứu khoa học: sinh viên cần tìm kiếm các nguồn tài liệu phù hợp để nâng cao kiến thức và hiểu rõ hơn về lĩnh vực quản lý nhà nước. Điều này có thể bao gồm việc đọc sách, viết báo và nghiên cứu khoa học.

Tạo môi trường và cơ hội học hỏi từ giảng viên, chuyên gia trong lĩnh vực quản lý nhà nước: sinh viên nên tận dụng cơ hội để học hỏi từ các chuyên gia và giảng viên trong lĩnh vực quản lý nhà nước thông qua các buổi báo cáo chuyên đề, tọa đàm, hội thảo chuyên môn. Mục đích là để có được kiến thức thực tế, những lời khuyên hữu ích trong học tập và sự nghiệp sau này.

5. Kết luận

Học viện Hành chính Quốc gia là một trong các cơ sở đào tạo ngành Quản lý nhà nước ở bậc đại học có uy tín và chất lượng, được khẳng định trong hơn hai chục năm qua. Chất lượng đào tạo của Học viện Hành chính Quốc gia được minh chứng qua sự đóng góp vào quá trình cải cách hành chính cũng như quá trình thực tiễn của những người học ngành Quản lý nhà nước ở Học viện.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 27/2022/QĐ-TTg ngày 19/12/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ, Học viện đã và đang tiếp tục đào tạo ngành Quản lý nhà nước tại bậc đại học và không ngừng đổi mới về chương trình đào tạo cho phù hợp hơn với bối cảnh hội nhập và cải tiến quy trình đào tạo nhằm hướng tới nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Thông tư số 09/2022/TT-BGDĐT ngày 06/6/2022 quy định Danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học.
2. Trường Đại học Quản lý và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (2023). Ngành Quản lý nhà nước học gì? Học ở đâu? Học như thế nào?”. https://www.umt.edu.vn/vi-vn/nganh-quan-ly-nha-nuoc-hoc-gi-hoc-o-dau-hoc-nhu-the-nao.
3. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 27/2022/QĐ-TTg ngày 19/12/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ. https://baochinhphu.vn/chuc-nang-nhiem-vu-co-cau-to-chuc-cua-hoc-vien-hanh-chinh-quoc-gia-102221219172159854.
4. Lưu Diễm (2024). Rà soát, cải tiến chương trình để nâng cao chất lượng đào tạo đại học”. https://giaoduc.net.vn, ngày 14/6/2024.
5. Học viện Hành chính Quốc gia. Giáo trình về quản lý nhà nước chương trình chuyên viên, chuyên viên chính.