Xây dựng “thế trận lòng dân”, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia trong bối cảnh mới

Đại tá, TS. Bùi Thanh Cao
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Lịch sử giữ nước của Việt Nam là chiều dài lịch sử của một dân tộc nhỏ bé nhưng luôn phải chống lại những thế lực ngoại xâm rất lớn mạnh. Nhờ có “chúng chí thành thành”1 với lòng yêu nước nồng nàn mà sức mạnh của dân tộc được nhân lên gấp bội, “kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Trong bối cảnh tình hình mới, xây dựng “thế trận lòng dân” đang là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ khóa: Thế trận lòng dân, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

1. Đặt vấn đề

Xây dựng “thế trận lòng dân” là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia trong bối cảnh tình hình mới. “Thế trận lòng dân” là tổng hoà các yếu tố nhận thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quyết tâm của mỗi người dân tạo thành trạng thái chính trị – tinh thần của toàn dân, được lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích quốc gia – dân tộc khơi dậy, quy tụ, dẫn dắt, định hướng, phát huy theo mục tiêu chính trị nhất định, thông qua hệ thống cơ chế, chính sách hợp lòng dân, góp phần hình thành sức mạnh tổng hợp và nền tảng vững chắc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước.

“Thế trận lòng dân” là một nhân tố cực kỳ quan trọng cấu thành sức mạnh quốc phòng, quân sự Việt Nam; là loại hình thế trận đặc biệt, không thể hiện ra cụ thể như thế trận quân sự, quốc phòng mà được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc theo từng cấp độ khác nhau. “Thế trận lòng dân” là vấn đề cốt tử đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”2.

2. Vai trò tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý: Nước nhà thịnh hay suy, vững chắc hay lâm nguy đều bắt nguồn từ tiềm lực quốc phòng mạnh hay yếu và “lòng dân” có chung sức, đồng lòng hay ly tán, không theo. Ông cha ta đã thường xuyên chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho việc “giữ nước” ngay trong thời bình, coi trọng “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Chính sách “ngụ binh ư nông” và “viễn nhu” (thời Lý); “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc” để giữ nước (thời Trần) và “nước lấy dân làm gốc”, “việc nhân nghĩa cốt để yên dân” (thời Lê Lợi – Nguyễn Trãi),… đã góp phần làm cho “vua sáng, minh quân – tôi hiền, trung liệt”, trên dưới đồng lòng, “phụ tử chi binh”, “chúng chí thành thành”, là “lá chắn thép” để giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập dân tộc và cương vực của nước nhà. Trái lại, khi nào lơi lỏng, xem nhẹ, không quan tâm chăm lo đến xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”, không quy tụ được nhân dân đoàn kết đồng lòng ủng hộ, lòng dân ly tán, thì dù có thành cao, hào sâu, “nỏ thần” lợi hại (thời Âu Lạc); quân đội hùng hậu, thành lũy kiên cố, vũ khí, phương tiện hiện đại (thời nhà Hồ) cũng đều bị thất bại trước sự xâm lăng của kẻ thù.

Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã luôn quan tâm đến vấn đề này. Bài học sâu sắc nhất mà Đảng ta rút ra từ thực tiễn cách mạng là huy động, tập hợp được sức mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định: xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”3.

Đại hội XII, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc4. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”5.

Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó đoán định. Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Sự tác động, ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số và các thách thức an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm luôn đan xen, ngày càng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định… Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với việc xây dựng “thế trận lòng dân” để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia trong bối cảnh, tình hình mới.

3. Một số nhiệm vụ đặt ra trong xây dựng thế trận lòng dân góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia

Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới.

Đây là vấn đề cốt lõi nhất để xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới, nhất là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; hiện thực hóa tư duy mới về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; làm cho toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân”, thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với việc xây dựng và củng cố, phát huy “thế trận lòng dân”… Những vấn đề đó phải được thấm đậm vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.

Cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm dân cư và yêu cầu xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” trên từng địa bàn để có biện pháp tiến hành phù hợp, hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với xây dựng phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

Thường xuyên giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội, Công an và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội, Công an trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tăng cường quán triệt, thực hiện tốt các kết luận, nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương, quy định về những điều đảng viên không được làm; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý, điều hành đối với việc xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong tình hình mới. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và hoạt động của chính quyền các cấp; thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp, Luật Quốc phòng, các chiến lược về quốc phòng, an ninh cả trong thời bình và thời chiến; củng cố, kiện toàn cơ quan, cán bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, địa phương. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp lệnh, các thể chế, quy định và hệ thống chính sách đối với quốc phòng, an ninh, xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, trách nhiệm của các tổ chức chính trị – xã hội.

Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội; thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.

Tập trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện ngày càng thuận lợi, an toàn cho người dân, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và tự chủ, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch trong kinh tế thị trường, tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế khác.

Quá trình phát triển phải bảo đảm hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, ưu tiên phát triển chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh; chú trọng kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống của Nhân dân; tiếp tục nghiên cứu, thực hiện các chính sách giảm thuế nông nghiệp, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo; đẩy mạnh thực hiện các chương trình, cuộc vận động, phong trào, như: “Xây dựng nông thôn mới”, “Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau”…

Bảo đảm các tầng lớp nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền; từ đó, phát huy trách nhiệm, tâm huyết, trí tuệ của nhân dân trong sản xuất – kinh doanh, xây dựng, phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh, trật tự ở địa phương, cơ sở.

Bốn là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh; thực hiện tốt việc phối hợp giữa Quân đội với Công an và dân quân tự vệ, góp phần xây dựng phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

Tập trung “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc. Phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”6.

Chú trọng nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Quân đội với Công an và dân quân tự vệ, nhất là trong thực hiện Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh Quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng. tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao; thường xuyên nghiên cứu địa bàn, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án quốc phòng, an ninh.

Phát huy vai trò các đơn vị Quân đội, Công an là “đội quân công tác” trên các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự; tích cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội và Công an trong tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp, tổ chức thực hiện; tham gia thẩm định, quản lý, sử dụng đất quốc phòng và phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, phát triển các khu kinh tế – quốc phòng, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu, biên giới, biển, đảo, bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; đồng thời, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội trên phạm vi cả nước và từng địa bàn.

Năm là, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch.

Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí dưới mọi hình thức.

Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình thực chất, kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai, minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiên quyết xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng; đồng thời, có chính sách khuyến khích, bảo vệ các tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị vững mạnh, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chú thích:
1. “Chúng chí thành thành” nghĩa là ý chí của quần chúng làm nên bức thành kiên cố. “Chúng chí thành thành” theo nghĩa của người xưa và “quốc phòng toàn dân” thời nay đều có chung một cội nguồn: “Nước lấy dân làm gốc. Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân… Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
2. Nguyễn Phú Trọng (2019). Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 80.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 224 – 235.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 149.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 157, 158.