ThS. Chu Bình Minh
Đại học Kiểm sát Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Tính tất yếu khách quan trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam xuất phát từ thực tiễn Việt Nam phù hợp với đặc điểm của thời đại, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Bài viết phân tích những thành tựu, hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp Việt Nam thời kỳ đổi mới, đồng thời đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Từ khóa: Hoàn thiện; xây dựng; nhà nước pháp quyền; xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp.
1. Đặt vấn đề
Qua thực tiễn gần 40 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định nhất quán đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp – xây dựng nền tư pháp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phù hợp với sự phát triển của lý luận và thực tiễn đất nước là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Một mặt, đòi hỏi xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như là một tất yếu khách quan, mặt khác nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống là quản lý nền kinh tế thị trường như thế nào để phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, làm thế nào để đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng của người dân về quyền tự do, công bằng, dân chủ, quyền tài sản, quyền sống.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư, cùng với đó là sự gia tăng của các loại khiếu kiện, tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Do vậy, đòi hỏi một nền tư pháp mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng cấp bách. Văn kiện Đại hội Đại đã chỉ rõ: “Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng”1.
Với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”2 … Điều này đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam cần thiết, cấp bách tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đã được tiến hành đồng bộ với đổi mới lập pháp, đổi mới hành pháp trong thời kỳ mới, đặc biệt chú ý tới xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, chuyên nghiệp và tận tụy phụng sự Tổ quốc và nhân dân trong thực thi công vụ.
2. Một số thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp Việt Nam thời kỳ đổi mới
Qua gần 40 năm đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới – Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, cụ thể:
Một là, hệ thống pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội; vai trò, vị trí của Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật, không được trái Hiến pháp;…
Hai là, bước đầu đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; hành động một cách quyết liệt với quyết tâm chính trị cao, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị.
Ba là, phát huy sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị. Tiếp tục kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; khắc phục tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, không dám hành động, làm việc cầm chừng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến lược cải cách tư pháp kể từ sau khi Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành đã đạt được nhiều thành tựu, như:
Hoàn thiện thể chế về tư pháp: “Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013 và gần 70 luật, pháp lệnh liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp – đổi mới bao trùm của Hiến pháp được thể hiện trên 3 định hướng lớn: tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật; tăng cường kiểm soát quyền lực tư pháp; xác lập nhiều quyền và nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, tiệm cận với tư pháp tiến bộ thế giới”4 … Quốc hội đã ban hành đồng bộ các luật về tổ chức các cơ quan tư pháp; luật về nội dung, hình thức tư pháp; các luật về bổ trợ tư pháp gồm các đạo luật,…
Hoàn thiện tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp: phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp của cơ quan điều tra; thẩm quyền giữa thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên; Luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt: ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật, thu thập bí mật dữ liệu điện tử,… điển hình năm 2021 với việc thành lập Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân Tối cao theo Nghị quyết số 1192/NQ-UBTVQH14 ngày 22/1/2021 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Xây dựng đội ngũ chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ: việc đổi mới hệ thống ngạch chức danh tư pháp từ cấp hành chính (huyện, tỉnh, tối cao) sang ngạch nghiệp vụ (sơ cấp, trung cấp, cao cấp, tối cao); mỗi cấp có thể bố trí nhiều ngạch thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên đã đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án. Đổi mới ngạch Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và ngạch Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao do Quốc hội phê chuẩn, kèm theo đó là tăng tuổi công tác, tăng chế độ, tăng trách nhiệm, cụ thể hóa tiêu chuẩn của từng ngạch chức danh tư pháp (sơ cấp, trung cấp, cao cấp, tối cao) để minh bạch trong bổ nhiệm và thuận lợi cho cán bộ căn cứ để phấn đấu, rèn luyện.
Hiện nay, “đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp có trên 15.000 người; 100% cán bộ đạt trình độ đại học trở lên”5; Ban hành Quy tắc chuẩn mực đạo đức và ứng xử của thẩm phán; Quy tắc ứng xử của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của tòa án,… là cơ sở để công chức, chức danh tư pháp tự tu dưỡng, rèn luyện, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tăng cường liêm chính tư pháp; đồng thời để Nhà nước và xã hội có căn cứ giám sát, đánh giá năng lực và phẩm chất của cán bộ, công chức giữ chức danh tư pháp. Cùng với đó, cơ sở vật chất được tăng cường bảo đảm các điều kiện hoạt động cho cơ quan tư pháp. Công tác đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp và xây dựng các cơ sở đào tạo luật, đào tạo các chức danh tư pháp ngày càng được quan tâm. Nhiều trụ sở làm việc, kho tang vật được đầu tư xây dựng; tăng cường phương tiện làm việc, trang thiết bị nghiệp vụ và phương tiện đi lại phục vụ công tác; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động, tiến tới xây dựng Tòa án điện tử. Đặc biệt, Nghị quyết số 161/2021/QH14 về công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao và Kiểm toán Nhà nước, ngày 08/4/2021 khi đề cập đến Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao: “tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng để xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, công bằng, nghiêm minh, hiện đại…”6.
Cải cách tư pháp ở Việt Nam luôn có ý nghĩa quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là kết quả của quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, là phương tiện để bảo đảm trật tự xã hội, bảo đảm công bằng cũng như thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, thật sự là chỗ dựa của Nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời, phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Hiệu quả giám sát của các cơ quan dân cử, các đoàn thể chính trị – xã hội đối với hoạt động tư pháp, kiểm soát quyền lực tư pháp thực chất và hiệu quả. Một mặt, hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với người đứng đầu các cơ quan tư pháp thực chất và thẳng thắn, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiểu biết và năng lực tiếp cận tư pháp của Nhân dân. Mặt khác, đòi hỏi kiểm soát quyền lực tư pháp thực chất, hiệu quả ở góc độ ngành kiểm sát: “phải tiếp tục tăng cường trách nhiệm, thực hiện hiệu quả chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng như điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, đó chính là thực hiện sự ủy thác của Quốc hội cho ngành Kiểm sát để kiểm soát quyền lực tư pháp,… Các vụ án, vụ việc tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, phá sản… cần phải được giám sát chặt chẽ về thời hạn để bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn luật định; bảo đảm càng nhanh thì càng hiệu quả; nền tư pháp hiệu quả cũng là chủ trương của nền tư pháp hiện đại, nhưng quan trọng nhất là được Nhân dân tin tưởng, xã hội đồng tình ủng hộ”7.
3. Một số hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp Việt Nam thời kỳ đổi mới
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp trong thời gian qua vẫn còn có một số hạn chế, thách thức cần giải quyết:
Một là, hệ thống pháp luật còn nhiều chỗ vẫn chưa đồng bộ, thống nhất, còn tình trạng có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật được ban hành nhưng chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần; một số luật còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên khi có hiệu lực chưa được thi hành ngay mà phải chờ văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều bất cập. Một số quy định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan khác vẫn chậm được cụ thể hóa. Chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực chưa rõ; việc phân định chức năng, thẩm quyền quản lý, điều hành tập thể Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chưa thật rõ ràng, rành mạch.
Bộ máy chính phủ tuy giảm số bộ, nhưng số lượng đơn vị đầu mối trong từng bộ lại có xu hướng tăng; cơ cấu bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ chưa được sắp xếp hợp lý. Việc tổ chức hệ thống tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân đã được đổi mới một bước theo Hiến pháp năm 2013 nhưng vẫn còn nhiều bất cập về cấu trúc bên trong. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương chưa được đổi mới mang tính đột phá, chưa thật sự phù hợp với đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo; bộ máy tổ chức chưa thật sự tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng; …
Hai là, vẫn còn biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan8; việc thực hành dân chủ có nơi, có lúc còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của Nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Nhân dân còn hạn chế.
Ba là, vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội chưa thật sự được phát huy; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước Nhân dân… ban hành nhiều nghị quyết nhưng thực hiện không đầy đủ, thậm chí bỏ sót đầu việc chưa được khắc phục; một số nghị quyết nội dung thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết chưa thật tập trung; một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục9… Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Bốn là, việc tiếp cận tòa án của người dân còn gặp nhiều khó khăn do sự thiếu công tâm của thẩm phán và cán bộ tòa án. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến trong thực tế có nhiều người dân và doanh nghiệp chọn các phương án giải quyết tranh chấp khác, kể cả phương án trưng cầu dịch vụ của các công ty chuyên đòi nợ thuê thay vì tiếp cận với tòa án: “Thiếu công tâm của thẩm phán, cán bộ tòa án” (chiếm 34,3%) và “Thủ tục giải quyết tại tòa phức tạp, mất nhiều thời gian” (chiếm 39,9%)”10.
Theo Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án, trong năm 2019, qua giám sát, của Tòa án nhân dân Tối cao phát hiện sai phạm và tạm dừng bổ nhiệm lại với 33 thẩm phán; không xem xét bổ nhiệm lại 10 thẩm phán; cách chức 01 trường hợp; đồng thời đã xử lý kỷ luật 43 công chức Tòa án nhân dân địa phương do có hành vi vi phạm11. Báo cáo cũng nêu rõ “vẫn còn một số thẩm phán, công chức Tòa án thiếu trách nhiệm, thiếu kinh nghiệm, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng nên có vi phạm và hiệu quả công tác chưa tốt”12.
Đối với ngành Kiểm sát nhân dân, “vẫn còn một số chỉ tiêu chưa đáp ứng yêu cầu Quốc hội hoặc có chỉ tiêu không thể thực hiện, như: còn có trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam sau phải trả tự do không xử lý hình sự; còn để xảy ra một số trường hợp oan, sai phát sinh yêu cầu bồi thường; một số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; chất lượng kháng nghị các vụ án hành chính còn thấp; tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng yêu cầu”13.
4. Một số kinh nghiệm trong thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam cần quán triệt những bài học kinh nghiệm:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân phải dựa trên nền tảng tư tưởng lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân là quá trình khám phá, xây dựng mô hình nhà nước thích hợp với Việt Nam vì thế phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, sửa đổi, điều chỉnh tổ chức, hoạt động của nhà nước với yêu cầu công tác cải cách tư pháp cần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên phải thực sự liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật… Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp…”14.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân nhưng phải giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nghĩa là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước; bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân, đồng thời chuyên chính với các thế lực thù địch, những âm mưu, hành động đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam phải xây dựng hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, thượng tôn pháp luật, bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ; trung thành với Đảng, tận tụy phục vụ Nhân dân.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam của dân, do dân và vì dân là vấn đề rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm, các thế lực thù địch và bọn cơ hội dễ lợi dụng, vì thế phải hết sức thận trọng, phải tiến hành từng bước, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế xã hội, ngăn chặn được những âm mưu, hành động lợi dụng của các thế lực thù địch và bọn cơ hội.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, kết hợp các yếu tố dân tộc và thời đại; học tập, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, thành tựu, tinh hoa trí tuệ của nhân loại trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.
5. Một số kiến nghị, đề xuất
(1) Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, Đảng tập trung vào hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, giải pháp chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp trong thời kỳ mới, vì nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
(2) Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu. Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của các tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam và cơ quan thi hành án hình sự, dân sự gắn với cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp. Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả trong thực thi công vụ của hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
(3) Bảo đảm cho cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp có thu nhập ổn định, đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển ở mức khá so với mặt bằng chung của xã hội.
(4) Nguyên tắc cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép, làm tốt nhất có thể với tinh thần liêm chính, tự giác dựa vào pháp luật, bằng pháp luật phục vụ nhân dân một cách có trách nhiệm. Liêm chính trong xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật là nguyên tắc tối cần thiết. Vì có liêm chính thì sẽ xây dựng, thực thi được những văn bản pháp luật khách quan, toàn diện có ý nghĩa phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, dân tộc.
(5) Bảo đảm sự kiểm soát của Nhân dân đối với cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp; hệ thống tư pháp có tính minh bạch, dân chủ, triệt để thực hiện trách nhiệm giải trình, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
(6) Xây dựng đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp liêm chính trong thực thi công vụ, phải thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, có đạo đức nghề nghiệp.
6. Kết luận
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay là vô cùng cần thiết và cấp bách. Một mặt, góp phần hiện thực hóa nền tư pháp chuyên nghiệp, phục vụ và liêm chính. Mặt khác còn là động lực và đồng thời là giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân với giá trị cốt lõi – chuyên nghiệp, liêm chính, là hiện thân Nhà nước của dân, do dân, vì dân phụng sự tổ quốc và Nhân dân trong giai đoạn mới.
Chú thích:
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 287, 40, 41.
4, 5. Thành tựu nổi bật trong 15 năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, ngày 12/9/2019. https://congly.vn/thanh-tuu-noi-bat-trong-15-nam-thuc-hien-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-8531.html
6. Quốc hội (2021). Nghị quyết số 161/2021/QH14 về công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao và Kiểm toán Nhà nước, tr. 5.
7. Viện Kiểm sát nhân dân trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực tư pháp. https://baovephapluat.vn/kiem-sat-24h/van-de-su-kien/vien-kiem-sat-nhan-dan-trong-co-che-phan-cong-phoi-hop-va-kiem-soat-quyen-luc-tu-phap.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 151.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 197.
10. Bảo vệ công lý trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx.
11, 12. Tòa án nhân dân Tối cao (2020). Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các toà án. https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh?
13. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (2020). Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XIV) của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.