TS. Trần Thanh Tùng, TS. Nguyễn Thị Thanh Tâm
Học viện Chính trị khu vực 1
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong nhiều năm qua, du lịch của các tỉnh vùng núi phía Bắc phát triển chưa xứng với tiềm năng vốn có, vẫn mang tính chất đơn lẻ, manh mún. Nguyên nhân chính là từng địa phương vẫn phát triển du lịch dựa trên lợi thế riêng biệt của mình, thiếu sự liên kết trong nội bộ và trên phạm vi toàn vùng. Do vậy, không tạo ra được sản phẩm du lịch liên hoàn để có thể tận dụng nhiều thế mạnh, nâng cao tính cạnh tranh và độ bền vững cao. Bài viết tập trung đề xuất một số giải pháp thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển du lịch theo hướng bền vững nhằm khai thác tối đa lợi thế của mỗi địa phương và thu được nhiều lợi ích do du lịch mang lại.
Từ khóa: Liên kết vùng; phát triển du lịch; các tỉnh miền núi phía Bắc.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế lớn nhất thế giới và không còn là vấn đề của riêng một vùng hay một quốc gia mà trở thành vấn đề toàn cầu. Vì vậy, phát triển du lịch trong giai đoạn tới, cần phải đón đầu xu hướng dịch chuyển nguồn du khách đa dạng đến từ khắp thế giới, do đó, liên kết vùng để tạo các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù nhằm thu hút sự quan tâm, đáp ứng nhu cầu mang tính chất đa văn hóa của du khách là việc cần phải làm để thỏa mãn sự dịch chuyển này. Để giải quyết được điều đó, liên kết vùng là giải pháp tối ưu để tạo các sản phẩm du lịch độc đáo nhằm thu hút du khách và phát triển du lịch bền vững.
2. Quan niệm về liên kết vùng đối với phát triển du lịch
Liên kết vùng được hiểu là những mối quan hệ phối hợp, hợp tác thường xuyên, ổn định trong các hoạt động (trên nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó lĩnh vực kinh tế có vị trí trọng tâm) do các địa phương, đơn vị trong một vùng thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi nhằm khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế và bảo đảm lợi ích cho các địa phương tham gia. Liên kết vùng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như: liên kết ngành, liên kết giữa các chủ thể chức năng và liên kết không gian.
Tiếp cận dưới góc độ ngành, Porter.M (1990) định nghĩa “liên kết vùng là liên kết các ngành mang tính bổ sung lẫn nhau, mục tiêu là tăng năng lực cạnh tranh. Liên kết vùng có nhiều phương thức, tùy thuộc vào chuỗi giá trị sản phẩm. Có thể là một hạt nhân chủ đạo, các vệ tinh ngành khác xung quanh nhưng cũng có thể là chuỗi cùng một thành phẩm đưa qua nhiều giai đoạn mà mỗi địa phương đảm nhận vai trò trung chuyển”1.
Dù tiếp cận theo góc độ nào thì nội hàm của liên kết vùng vẫn hướng đến việc mở rộng không gian kinh tế bằng cách liên kết các chủ thể kinh tế trong từng địa phương và trong toàn vùng để tận dụng sự bổ trợ và bổ sung các nguồn lực thiếu hụt bằng cách tận dụng những lợi thế của nhau để tìm kiếm lợi ích cho các chủ thể tham gia. Liên kết vùng “là phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với không gian tự nhiên, sinh thái, xã hội và không gian chính sách, thể chế để tạo ra lợi thế cạnh tranh động cho vùng, quốc gia, là cơ sở phát triển kinh tế – xã hội bền vững”2.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng; các hoạt động du lịch được tạo thành bởi nhiều bộ phận và cần có sự kết nối, hợp tác, hỗ trợ của các ngành, các địa phương, các vùng, các chủ thể kinh tế với nhau. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, sự phát triển của ngành công nghiệp du lịch không chỉ nằm trong một địa phương mà của một quốc gia, một khu vực. Việc liên kết vùng khiến sản phẩm du lịch có thể tận dụng được nhiều thế mạnh, nâng cao tính cạnh tranh và có độ bền vững cao. Liên kết vùng trong phát triển du lịch góp phần tạo ra lợi thế về quy mô, tiết kiệm các chi phí trong quảng bá, tổ chức các tour du lịch, cũng như đầu tư kết cấu hạ tầng, chi phí đào tạo…; hạn chế tính cạnh tranh giữa các địa phương trong vùng có sản phẩm du lịch giống nhau; tăng giá trị gia tăng cho các sản phẩm du lịch.
Tuy nhiên, việc liên kết vùng trong du lịch yêu cầu các thành phần liên kết cần thuận lợi về không gian lãnh thổ và điểm tương đồng về tài nguyên để có thể phát huy điểm mạnh và tận dụng tối đa các tài nguyên du lịch cũng như cơ sở vật chất đáp ứng cho quá trình phát triển du lịch bền vững và đồng bộ hơn.
3. Thực trạng liên kết vùng trong phát triển du lịch của các tỉnh miền núi phía Bắc
3.1. Tiềm năng và lợi thế cho phát triển du lịch
Các tỉnh vùng núi phía Bắc bao gồm 11 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Bắc Kạn, Điện Biên, còn vùng trung du bao gồm: Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang. Căn cứ theo Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch vùng hiện hành thì các địa phương này được tính bao gồm 14 tỉnh: Cao Bằng, Điện Biên, Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Phía Bắc giáp với các địa phương cấp tỉnh là Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc; phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; phía Đông và phía Nam giáp vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung.
Tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898km2, chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm; có hơn 30 dân tộc anh em đang sinh sống, dân số toàn vùng năm 2022 là13.023.200 người, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước3, là địa điểm có nhiều di sản văn hóa, di tích lịch sử cách mạng và với vị trí địa lý có các loại địa hình phục vụ cho phát triển du lịch.
Du lịch sinh thái tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên vốn rất phong phú gồm 49 khu bảo tồn tự nhiên, 5 vườn quốc gia và 20 khu rừng văn hóa – lịch sử – môi trường4 với những danh lam thắng cảnh hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Thác Bà, lòng hồ sông Đà, Thác Bản Giốc, Thác Bạc. Nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng, như: Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử Điện Biên Phủ. Trên địa bàn có rất nhiều dân tộc thiểu số, tương đương khoảng 7 triệu người đang cư trú, với trên 30 thành phần dân tộc thiểu số phần lớn là dân tộc Tày, Mông, Thái, Mường, Nùng, Dao, hình thành một hệ giá trị văn hóa truyền thống hết sức độc đáo và đa dạng tạo nên nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển đầy đủ các loại hình du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng núi phía Bắc.
3.2. Thực trạng liên kết vùng trong phát triển du lịch
Du lịch hiện nay được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam, trong đó phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi là trọng điểm. Vài năm trở lại đây, vùng trung du và miền núi phía Bắc đang nổi lên trở thành địa điểm du lịch được yêu thích của du khách trong nước và quốc tế, điều đó thể hiện ở số lượng du khách và doanh thu từ du lịch mang lại cho các địa phương.
Bảng 1: Tổng số du khách và doanh thu từ du lịch của các địa phương vùng Trung du và miền núi phía Bắc năm 2023
TT | Địa phương | Số du khách (nghìn người) | Doanh thu (tỷ đồng) | Ghi chú | ||
Nội địa | Quốc tế | Tổng | ||||
1 | Hà Giang | 2.700 | 282 | 3000 | 7.100 | |
2 | Cao Bằng | 1.560 | 34 | 1.700 | 1.334 | |
3 | Bắc Cạn | – | – | 776.1 | 554,4 | – Không có số lượng |
4 | Tuyên Quang | – | – | 2.650 | 3.200 | – Không có số lượng |
5 | Lào Cai | 6.700 | 500 | 7.200 | 22.000 | |
6 | Yên Bái | 1.936 | 151,026 | 2.088 | 1.721 | |
7 | Thái Nguyên | 2480 | 20 | 2.500 | 2.144 | |
8 | Lạng Sơn | – | – | 3.900 | 3.100 | – Không có số lượng |
9 | Bắc Giang | – | – | 2.005 | 1.450 | – Không có số lượng |
10 | Phú Thọ | 690 | 8,6 | 776 | 3.365 | |
11 | Điện Biên | 992,5 | 7,5 | 1.000 | 1.700 | |
12 | Lai Châu | – | – | 1.045 | 974,756 | – Không có số lượng |
13 | Sơn La | – | – | 4.500 | 4.700 | – Không có số lượng |
14 | Hòa Binh | 3400 | 400 | 3.800 | 4000 |
Số liệu trên cho thấy, du lịch của các địa phương vùng trung du và miền núi phía Bắc đã có những bước phục hồi mạnh mẽ, số lượng du khách đến cách địa phương ngày càng tăng, theo đó doanh thu từ du lịch đã dần ổn định và có những bước tiến vượt bậc, 12/14 tỉnh có doanh thu từ nghìn tỷ đồng trở lên. Ngoài ra, hình thức làng du lịch cộng đồng và homestay của các địa phương này phát triển rất mạnh, hiện tại, Việt Nam có khoảng 300 làng du lịch cộng đồng, 5.000 homestay, sức chứa khoảng 100.000 khách thì hầu hết các làng du lịch, homestay ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Vì vậy, nếu được phát triển đúng hướng và có sự quản lý tốt, miền núi phía Bắc hoàn toàn có thể trở thành điểm đến hàng đầu thế giới về phát triển du lịch cộng đồng5. Đây có thể coi là những tín hiệu hết sức đáng chú ý đối với sự phát triển du lịch của các địa phương miền núi phía Bắc nếu có những chính sách và giải pháp đúng đắn sẽ khai thác hết tiềm năng du lịch đang có và biến ngành này trở thành động lực tăng trưởng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội toàn vùng.
Thực tiễn phát triển của miền núi phía Bắc thời gian qua cho thấy, các hoạt động liên kết của vùng đã được coi trọng, vấn đề tổ chức liên kết về mặt chính quyền gắn với đầu tư phát triển, từng bước hình thành và phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, gắn kết các địa phương, bước đầu phát triển được hệ thống các khu du lịch nghỉ dưỡng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, như tại các tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Sơn La và đã đạt được kết quả như sau:
Một là, cơ chế liên kết, hợp tác và hội đồng điều phối chung của toàn vùng bước đầu được thiết lập.
Quyết định số 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký thành lập Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc (Hội đồng điều phối vùng) nhằm đổi mới cơ chế điều phối vùng, thúc đẩy phát triển xanh, bền vững và toàn diện vùng trung du và miền núi phía Bắc. Trong đó có nhiệm vụ điều phối liên kết các hoạt động sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị đối với các mặt hàng nông nghiệp, hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, truyền thông của vùng. Điều này làm cho các hoạt động liên kết du lịch của các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc đi vào thực chất hơn, tạo đà cho quá trình liên kết vùng của lĩnh vực du lịch các địa phương này phát triển. Tiếp theo đó, Quyết định số 55/QĐ-HĐĐPTDMNPB ngày 07/9/2023 của Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc về việc ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc. Quy chế quy định cụ thể phương thức điều phối về: lập và tổ chức thực hiện quy hoạch; đầu tư phát triển; đào tạo và sử dụng lao động; xây dựng các cơ chế, chính sách; giải quyết các vấn đề liên kết vùng; kế hoạch điều phối liên kết vùng; cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin vùng.
Hai là, các mô hình liên kết và chuỗi sản phẩm du lịch nội vùng được xây dựng và đi vào hoạt động, mang lại hiệu quả cao.
Mô hình liên kết giữa 3 tỉnh: Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ trong chương trình “Du lịch về cội nguồn” năm 2005, đã xây dựng sản phẩm mang diện mạo kinh tế, xã hội và văn hóa của cả 3 tỉnh. Tiếp đó, sự kết nối các tour, tuyến, điểm du lịch, như: “Cội nguồn đất Tổ”, “Đất ngọc Lục Yên”, “Cội nguồn Tây Bắc”, “Sắc màu vùng cao” năm 2008, mô hình liên kết giữa 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên) đã hình thành để phát triển du lịch bằng dự án “Cung đường Tây Bắc”, xây dựng tour đi qua những bản làng nghèo nhất cả nước, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào bằng du lịch. Mô hình liên kết phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và năm 2014 là sự kiện lớn có quy mô cấp vùng như chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ VI mở rộng khám phá “tứ đại đèo” ở Tây Bắc; Những nẻo đường Tây Bắc; Tây Bắc mùa hoa nở. Đáng chú ý là Chương trình liên kết hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng là Hà Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Hòa Bình, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong công tác quảng bá, xúc tiến, kêu gọi thu hút du lịch; liên kết và đưa vào khai thác hiệu quả nhiều tour du lịch kết nối các tỉnh Tây Bắc mở rộng và TP. Hồ Chí Minh, như: tour về miền đất Tổ – Cội nguồn dân tộc. Trong 6 tháng đầu năm 2023, các tỉnh trong nhóm hợp tác đã tổ chức 14/25 hoạt động; thu hút hơn 36,3 triệu lượt khách du lịch, với tổng doanh thu du lịch gần 105.000 tỷ đồng6.
Ba là, mở rộng liên kết liên vùng trong hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch.
Từ năm 2016 đến nay, hoạt động liên kết các trung tâm xúc tiến du lịch miền Bắc được tổ chức tại thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), đã diễn ra lễ ký kết biên bản ghi nhớ về liên kết phát triển du lịch giữa 16 tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lai Châu, Vĩnh Phúc, Hà Giang, Lạng Sơn, Ninh Bình, Bắc Kạn, Thái Bình, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình về các nội dung: thúc đẩy sự trao đổi thông tin về các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch nhằm đạt hiệu quả cao trong sự phát triển du lịch của các tỉnh, tham gia gian hàng xúc tiến quảng bá du lịch chung tại các liên hoan, hội chợ về du lịch trong nước và quốc tế; hỗ trợ trong các hoạt động đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch; kết nối, xây dựng, phát triển các sản phẩm du lịch mang nét đặc trưng vùng, miền. Năm 2022, đã tổ chức “Tuần văn hóa du lịch 6 tỉnh Việt Bắc và Hà Nội” tại Hà Nội cho thấy, sự liên kết chặt chẽ giữa 6 tỉnh Việt Bắc với Hà Nội tạo nên thế mạnh tổng thể phát triển du lịch cả vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên, liên kết vùng trong phát triển du lịch ở các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, cơ chế hợp tác, liên kết giữa các địa phương đa số chỉ nằm ở các cuộc hội thảo, bản ghi nhớ giữa các chủ thể chính quyền và các hiệp hội doanh nghiệp, mặc dù có Hội đồng điều phối vùng nhưng đến hiện tại đang trong quá trình hoàn thiện bộ máy, quy chế hoạt động và phương thức điều phối, chưa có một quy chế cụ thể cho riêng lĩnh vực liên kết du lịch, gần như mới chỉ dừng lại ở hình thức, trao đổi kinh nghiệm, chưa huy động được nguồn lực và khuyến khích đầu tư, hiệu quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Đây là điểm gây tắc nghẽn về mặt phối hợp thực hiện chính sách liên kết phát triển du lịch của các địa phương trong dài hạn.
Thứ hai, sự đơn điệu, manh mún, trùng lặp trong liên kết phát triển sản phẩm du lịch, chưa phát huy lợi thế riêng có của vùng, đó là du lịch cộng đồng đặc trưng gắn với văn hóa dân tộc và các điểm du lịch đặc thù, như: du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh; du lịch cộng đồng gắn với di tích lịch sử, sự liên kết giữa các điểm du lịch toàn vùng còn rất thiếu. Các điểm đến của các địa phương chưa tạo ra được sự liên kết toàn tuyến… điều này thực sự gây nhàm chán cho du khách trong suốt tuyến du lịch.
Thứ ba, liên kết vi mô và liên kết nội vùng còn rất yếu và thiếu. Nhìn vào thực trạng bản đồ du lịch của các địa phương miền núi phía Bắc cho thấy, tác nhân liên kết nội vùng, tiểu vùng còn rất thiếu và yếu. Sự thiếu và yếu này bắt đầu từ chính vai trò của chính quyền các địa phương trong từng tiểu vùng. Bên cạnh đó, liên kết vùng muốn trở nên gắn bó, lâu dài và thực chất phải bắt đầu từ mối liên kết vi mô của các chủ thể kinh tế đang hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch của các địa phương rất ít và nhỏ bé về quy mô, mới hình thành, có phạm vi hoạt động bó hẹp tại địa phương. Điều đó dẫn đến sự phụ thuộc của các doanh nghiệp địa phương với các doanh nghiệp du lịch lữ hành lớn, xa hơn nữa là chính các doanh nghiệp bản địa hoạt động trong lĩnh vực này cạnh tranh với nhau quyết liệt, chưa liên kết lại để liên kết với chính các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành.
Thứ tư, hợp tác và liên kết du lịch trong vùng không thực sự cân xứng, do phát triển không đồng đều của du lịch các tỉnh trong vùng. Nổi bật trong vùng là du lịch Lào Cai, Hà Giang đang nổi lên thành trung tâm du lịch của cả vùng; không chỉ là các cơ sở lưu trú, cung cấp dịch vụ địa phương, sự hình thành của các doanh nghiệp lữ hành đánh dấu giai đoạn phát triển mới của điểm đến du lịch này – giai đoạn tăng trưởng. Trong khi đó, các tỉnh khác trong vùng mới trong giai đoạn phát triển khai phá, tham gia khi ngành Du lịch còn rất non trẻ.
4. Một số giải pháp thúc đẩy liên kết vùng để phát triển du lịch bền vững của các tỉnh miền núi phía Bắc
Một là, xây dựng và hoàn thiên cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng kết nối các khu điểm du lịch của vùng; đẩy nhanh tiến độ khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn – Hà Nội, Lào Cai – Hà Nội, phát triển du lịch theo 5 hành lang kinh tế (Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ – Hà Nội; Lạng Sơn – Bắc Giang – Hà Nội; Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình – Hà Nội; Hà Giang – Tuyên Quang – Phú Thọ – Hà Nội; Cao Bằng – Bắc Kạn – Thái Nguyên – Hà Nội) và khu vực động lực tại vành đai Bắc Giang – Thái Nguyên – Phú Thọ gắn với vùng Thủ đô. Liên kết vùng trong phát triển du lịch của các tỉnh vùng núi phía Bắc chỉ thực sự khởi sắc khi hạ tầng giao thông phát triển, bởi đó là điều kiện tiên quyết để khơi thông nguồn du khách đến với các tỉnh miền núi phía Bắc.
Hai là, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết tự nguyện giữa các địa phương thông qua các chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và chính sách tạo thuận lợi, khuyến khích địa phương liên kết. Đồng thời các địa phương phải có cơ chế cởi mở, thông thoáng, ưu đãi, khích lệ các doanh nghiệp và người dân chủ động và tích cực tham gia đầu tư hạ tầng du lịch, sáng tạo ý tưởng, đầu tư nguồn lực để hình thành các sản phẩm du lịch; xây dựng cơ chế điều phối liên kết vùng để cùng giải quyết những vấn đề chung bảo đảm mục tiêu hài hòa lợi ích và cạnh tranh bình đẳng giữa các tỉnh trong vùng, từng bước thực hiện vai trò động lực lan tỏa đối với toàn bộ các địa phương vùng núi phía Bắc.
Ba là, liên kết trong công tác quảng bá du lịch toàn vùng. Đặc biệt, hợp tác liên kết du lịch trong vùng nổi lên vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Do đó, các sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch và các doanh nghiệp trong toàn vùng phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch vùng thông qua việc xây dựng bộ nhận diện thương hiệu du lịch vùng, dựa trên cơ sở các sản phẩm du lịch đặc thù và tiềm năng du lịch của từng địa phương các tỉnh miền núi phía Bắc; đẩy mạnh liên kết giữa các địa phương trong vùng cùng với Tổng cục Du lịch triển khai các chương trình xúc tiến quảng bá du lịch quốc gia.
Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội Du lịch của các tỉnh miền núi phía Bắc trong việc kết nối, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lữ hành và các doanh nghiệp đẩy mạnh liên kết, hợp tác xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của vùng, từ đó hình thành các chương trình du lịch hấp dẫn, nâng cao năng lực quản lý trong xây dựng và quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý môi trường du lịch, tăng cường kết hợp du lịch với nông nghiệp. Đây là lợi thế thật sự của các địa phương vùng núi phía Bắc, sự kết hợp này góp phần nâng cao giá trị về nông sản, thương hiệu hình ảnh nông sản, khai thác thế mạnh của nông nghiệp bản địa trở thành sản phẩm của du lịch trải nghiệm, giúp cho thu nhập và kết cấu hạ tầng tại các điểm đến trong toàn vùng được nâng lên.
Năm là, nhanh chóng xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu, trao đổi thông tin kinh tế – xã hội, mang tính cập nhật về chủ trương, chính sách, thể chế, chương trình hợp tác, hoạt động hợp tác đa phương, song phương nội vùng và liên vùng, dự báo thị trường, việc làm, lao động chất lượng cao, nhu cầu sản phẩm, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu của toàn bộ các địa phương các tỉnh miền núi phía Bắc nhằm tạo bước đột phá mới, chuyển từ phát triển du lịch từng địa phương sang phát triển du lịch vùng bền vững, mở rộng kết nối để phát triển du lịch xanh, tiếp tục xây dựng và giữ vững thương hiệu du lịch đặc trưng của các địa phương, tổ chức triển khai hoạt động liên kết có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt là kết nối ba bên giữa các nhà quản lý, các doanh nghiệp lữ hành, lưu trú, vận chuyển và các khu, điểm du lịch để tạo thành tour du lịch cụ thể kết nối các tỉnh miền núi phía Bắc với các tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế.
5. Kết luận
Liên kết vùng là một trong những khâu đột phá để phát triển du lịch của các địa phương vùng núi phía Bắc. Để liên kết phát triển du lịch thực sự có hiệu quả, bền vững, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó việc xây dựng một hệ thống chính sách pháp luật vững mạnh là yếu tố cơ bản để việc thực thi, triển khai trong thực tế được thông suốt và mang tính hiệu quả cao, đạt được mục tiêu gắn liên kết du lịch với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi địa phương. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để phát huy tiềm năng du lịch; đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh vùng núi phía Bắc như mục tiêu của Đảng, Nhà nước đề ra.
Chú thích:
1. The Competition Advantage of Nations. New York: The Free Press. https://doi.org/10.1007/978-1-349-11336-1
2. Liên kết vùng trong quá trình tái cơ cấu kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng. https://baotintuc.vn/thoi-su/lien-ket-vung-trong-qua-trinh-tai-co-cau-kinh-te-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-20160403211817818.htm
3. Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê năm 2022. H. NXB Thống kê, tr. 109.
4. Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ: Nơi hội tụ tiềm năng du lich đặc sắc. https://dangcongsan.vn/the-thao/vung-trung-du-va-mien-nui-bac-bo-noi-hoi-tu-tiem-nang-du-lich-dac-sac-58360.html
5. Phát triển kinh tế du lịch vùng Trung du và miền núi phía Bắc. https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/phat-trien-kinh-te-du-lich-vung-trung-du-va-mien-nui-phia-bac-646965.html
6. Thúc đẩy liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc mở rộng. https://bvhttdl.gov.vn/thuc-day-lien-ket-phat-trien-du-lich-vung-tay-bac-mo-rong-20231030084913017.htm
Tài liệu tham khảo:
1. Nhóm tác giả tổng hợp Báo cáo kinh tế – xã hội năm 2023 của các địa phương vùng miền núi phía Bắc.
2. Hội đồng Điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc (2023). Quyết định số 55/QĐ-HĐĐPTDMNPB ngày 07/9/2023 về việc ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc.
3. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 975/QĐ-TTg ngày 19/8/2023 về việc thành lập Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía Bắc.
4. Hội nghị lần thứ nhất Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc. https://dangcongsan.org.vn/bokhdt/Lists/TinHoatDong/View_Detail.aspx?ItemID=344
5. Hội thảo “Liên kết vùng trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam” thành công tốt đẹp. https://kinhtetrunguong.vn/web/guest/47/hoi-thao-lien-ket-vung-trong-qua-trinh-tai-co-cau-kinh-te-ch.html