PGS.TS. Tạ Thị Thanh Tâm
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo đảm sự điều hành thông suốt của một nền hành chính từ trung ương đến địa phương theo các quy định của pháp luật, đồng thời tăng cường sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong thực thi công vụ, việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực là một nhu cầu tất yếu, khách quan. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi hệ thống pháp luật về phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước phải cụ thể, rõ ràng, đồng bộ. Thông qua việc đánh giá thực trạng quy định pháp luật về phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính ở địa phương thông qua phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực nhà nước.
Từ khóa: Quy phạm pháp luật; phân cấp, phân quyền; kiểm soát quyền lực.
1. Đặt vấn đề
Đối với mọi lĩnh lực của đời sống xã hội nói chung, cũng như đối với việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước nói riêng, nếu các quy định của pháp luật phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại.
Trong thời gian qua, việc phân cấp, phân quyền trong hoạt động quản lý nhà nước đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng cũng còn không ít những bất cập. Việc tìm hiểu quy định pháp luật trong phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định gắn với kiểm soát quyền lực, nhằm phát huy tốt, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương là việc làm cần thiết.
2. Phân quyền, phân cấp và việc kiểm soát quyền lực trong quản lý nhà nước
Theo Từ điển Tiếng Việt (2002), “phân quyền là phân chia quyền hành chứ không tập trung”1. Phân quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước cho các cơ quan, đơn vị để thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Có thể tiếp cận việc phân quyền từ hai giác độ.
Theo chiều dọc, sự phân quyền theo lãnh thổ, đó là sự phân quyền giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, trong đó cấp trên chuyển giao một phần nhiệm vụ, quyền hạn, phương tiện, điều kiện vật chất cho chính quyền cấp dưới thực hiện.
Theo chiều ngang, đó là sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền. Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương (Điều 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019).
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, “phân cấp quản lý là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định quyền hạn và nhiệm vụ cho mỗi cấp”2. Phân cấp trong quản lý nhà nước là việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý cấp trên cho cơ quan quản lý cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, trên cơ sở quy định của pháp luật. Phân cấp quản lý chính là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Khi phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, cơ quan nhà nước cấp trên phải bảo đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, đồng thời, cơ quan cấp trên phải hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp. Cơ quan cấp dưới được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Nếu được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền phân cấp, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, tùy theo tình hình cụ thể ở địa phương.
Về kiểm soát quyền lực, “quyền lực là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”3; kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định, đặt trong phạm vi quyền hành của mình4. Kiểm soát quyền lực là việc xem xét, theo dõi để phát hiện ngăn chặn sai sót của các chủ thể trong thực hiện, thực thi nhiệm vụ ở các cấp quản lý. Kiểm soát quyền lực không chỉ gồm việc phát hiện và xử lý sai phạm mà còn bao hàm cả việc phòng ngừa khả năng sai phạm có thể xảy ra trong quá trình các chủ thể thực hiện, thực thi nhiệm vụ.
Kiểm soát quyền lực nhà nước đối với cấp dưới, bao gồm cả tư cách tổ chức và cá nhân, trong việc tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phân quyền, một mặt giúp loại bỏ những nguy cơ lạm quyền, những việc làm vi phạm pháp luật của các chủ thể thực thi công vụ, mặt khác còn giúp phát hiện những gương cá nhân xuất sắc, tích cực để nhân rộng. Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức như thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát… Bên cạnh các cơ quan trong bộ máy nhà nước là các chủ thể chính thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, còn có mặt trận tổ quốc các cấp và các công dân cũng là những chủ thể tham gia hoạt động này. Các chủ thể thực hiện việc phân cấp, phân quyền chính là đối tượng của kiểm soát quyền lực nhà nước trong phân cấp, phân quyền.
3. Thực trạng quy định pháp luật liên quan đến phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nướcgắn với việc kiểm soát quyền lực
Trong thời gian qua, các quy định về phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương về cơ bản là chặt chẽ, đồng bộ, tuy nhiên cũng vẫn còn tồn tại một số bất cập.
Điều 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về phân quyền như sau: “Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác”. Như vậy, những nhiệm vụ không được phân cấp, ủy quyền thì phải được quy định rõ trong luật.
Theo Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, việc phân cấp được quy định như sau: “Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Theo đó, việc phân cấp sẽ loại trừ khi “pháp luật có quy định khác”.
Trong văn bản quy phạm pháp luật quy định về phân cấp cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước cấp trên trong phân cấp cho cơ quan cấp dưới, đồng thời chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước liên quan đến phân cấp. Trên cơ sở tình hình cụ thể ở mỗi địa phương, chính quyền địa phương có thể xem xét phân cấp tiếp cho thuộc cấp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp với điều kiên có sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp.
Khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan cấp dưới, cơ quan nhà nước cấp trên phải: (1) Bảo đảm điều kiện về các nguồn lực cần thiết để cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; (2) Chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cấp dưới mà mình phân cấp; (3) Có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phân quyền cho chính quyền cấp dưới. Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Tuy nhiên, trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành, việc phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương mới chỉ dừng ở các quy định mang tính nguyên tắc chung. Vì vậy, giữa các địa phương chưa có sự thống nhất từ nhận thức cho đến thực tiễn triển khai việc phân cấp, phân quyền.
Việc phân quyền trong quản lý nhà nước có thể là sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiên các quyền được phân, chẳng hạn như các cơ quan quản lý theo ngành/lĩnh vực và các cơ quan quản lý theo lãnh thổ. Hiện nay, mặc dù trong các luật chuyên ngành có quy định cụ thể việc phân cấp, phân quyền trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước nhưng mới chủ yếu tập trung vào phân cấp, phân quyền giữa trung ương và cấp tỉnh. Còn việc phân cấp, phân quyền giữa chính quyền địa phương các cấp thì chưa có quy định rõ ràng, chẳng hạn: “Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương”5; hoặc: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo phân cấp của Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các nhiệm vụ sau đây: a) Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của cơ sở giáo dục trên địa bàn; b) Bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thư viện và thiết bị dạy học của trường công lập thuộc phạm vi quản lý…”6. Việc quy định chung chung như vậy gây khó khăn cho việc kiểm soát quyền lực của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định trách nhiệm thuộc cấp nào khi có sự cố, sai phạm, do nhiều cấp cùng tham gia quản lý.
Theo Luật Đất đai năm 2013, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện có hầu hết những thẩm quyền tương tự như UBND cấp tỉnh trong quản lý đất đai, ngoại trừ việc ban hành khung giá đất và quyết định giá đất cụ thể. Ngoài ra, một số thẩm quyền còn được trao cho chủ tịch UBND. Chẳng hạn, việc quyết định trưng dụng đất, quyết định gia hạn trưng dụng đất, quyết định mức bồi thường thuộc thẩm quyền của cả chủ tịch UBND cấp tỉnh và cả chủ tịch UBND cấp huyện. Việc phân cho hai cấp như vậy có nguy cơ dẫn đến cục bộ địa phương và thiếu trách nhiệm giải trình rõ ràng, gây khó khăn cho trung ương trong quản lý điều hành và kiểm soát. Đây là nguyên nhân gây lãng phí, tham nhũng về đất đai, là điểm nóng có nguy cơ gây bất ổn về xã hội.
Vì lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà chính quyền ở một số địa phương đã lợi dụng nguyên tắc “tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền” trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương để đưa ra các quyết sách lạm dụng quyền lực nhà nước, “vượt rào, lách luật”. Ngoài ra, việc kiểm tra, kiểm soát quyền lực của chính quyền trung ương đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương ở nhiều nơi thực hiện chưa nghiêm, thiếu chặt chẽ, dẫn tới nhiều địa phương lợi dụng sự buông lỏng trong quản lý và (hoặc) chưa phát huy được sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp dưới.
Bên cạnh đó, theo các quy định của pháp luật hiện hành, trong nhiều trường hợp, chính quyền địa phương không chủ động được việc thực hiện các nhiệm vụ mà địa phương có khả năng giải quyết, do việc phân cấp còn nặng về chuyển giao công việc, chuyển giao nhiệm vụ từ cấp trên xuống cấp dưới, chứ chưa chuyển giao một cách tương xứng với thẩm quyền và các điều kiện, nguồn lực thiết yếu cho cơ quan được phân cấp. Ví dụ, việc quyết định số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập của các tỉnh không thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh, mà được phê duyệt bởi Bộ Nội vụ. Ngoài ra, việc phân cấp về tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức, viên chức chưa tính tới đặc thù của chính quyền đô thị so với chính quyền nông thôn. Điều này, làm hạn chế đến việc chủ động, sáng tạo, kịp thời của chính quyền địa phương.
Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về cơ chế, vấn đề, nội dung kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với chính quyền địa phương cấp dưới trong phân cấp, phân quyền, do vậy chưa phát huy được vai trò của kiểm tra, giám sát; đồng thời, giúp tăng cường sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp dưới, để từ đó bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý nhà nước.
4. Một số giải pháp
Trên cơ sở một số hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về phân cấp, phân quyền, đồng thời để thực hiện tốt yêu cầu của nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về đột phá chiến lược “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”, để hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương, cần thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, phải phân định rõ ràng thẩm quyền giữa trung ương và địa phương trong phân cấp, phân quyền theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 (Điều 112) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (Điều 12). Cần xác định cụ thể, rõ ràng về vị trí, vai trò, chức năng của trung ương và các cấp chính quyền địa phương, từ đó rạch ròi những loại việc chỉ thuộc thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền cụ thể. Chẳng hạn, trong lĩnh vực đất đai, trung ương cần nắm giữ những khâu cốt lõi, tạo sự thống nhất trong phạm vi toàn quốc, như: ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, xây dựng quy hoạch sử dụng đất, quyết định giá đất và kiểm soát quá trình thực thi pháp luật.
Thứ hai, phân cấp, phân quyền phải song hành với kiểm soát thực thi quyền lực. Trong điều kiện quyền lực nhà nước là thống nhất, phân cấp, phân quyền là việc phân công quyền lực cho địa phương để thực hiện dưới sự kiểm soát của trung ương bằng pháp luật. Do đó, nếu vượt ra ngoài sự kiểm soát của trung ương, và trong điều kiện được phân cấp, phân quyền mạnh, được trao nhiều quyền lực hơn thì chính quyền địa phương dễ có nguy cơ tham nhũng hơn.
Vì vậy, để phát huy vai trò của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, việc công khai, minh bạch trong thực thi công vụ và trách nhiệm giải trình đối với cơ quan nhà nước phải được đặt ra như một yêu cầu tất yếu, khách quan. Những vấn đề này cần được quy định đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo các biện pháp xử lý nghiêm đối với các cơ quan liên quan vi phạm. Bên cạnh đó, cũng cần pháp luật hóa những quy định chế tài xử lý nghiêm minh đối với những người có hành vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thứ ba, để phân cấp, phân quyền rành mạch và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan thực hiện, hệ thống pháp luật liên quan cần phải quy định chi tiết hơn thông qua việc xác định chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan phân cấp và cơ quan nhận phân cấp. Việc phân quyền, phân cấp rõ ràng còn bảo đảm cho Nhân dân có căn cứ nhận xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả thực hiện của chính quyền các địa phương, đồng thời, khắc phục sự trùng lặp hoặc không rõ ràng trách nhiệm phân quyền, phân cấp và thực hiện việc phân quyền, phân cấp.
Thứ tư, để phát huy vai trò giám sát, kiểm soát quyền lực của trung ương và các thiết chế tại địa phương, pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo hướng tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ được phân quyền, phân cấp. Đặc biệt, để khắc phục tình trạng tham nhũng, lãng phí với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn, cần quy phạm hóa việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội trong cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình về các nội dung liên quan đến phân cấp, phân quyền, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện phân cấp, phân quyền, góp phần bảo đảm việc giám sát được thực hiện hiệu quả.
Thứ năm, bảo đảm tính đồng bộ giữa các yếu tố về thẩm quyền, trách nhiệm và các nguồn lực thiết yếu trong phân cấp, phân quyền. Bởi, chỉ khi các điều kiện về nguồn lực được trao đầy đủ và cơ chế trách nhiệm được xác định tường minh, thì các cơ quan cấp dưới mới có thể thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả những công việc, lĩnh vực được phân cấp, phân quyền.
Việc thiếu bất kỳ một yếu tố nào sẽ làm cho quá trình phân cấp, phân quyền mất hiệu quả, thậm chí dẫn đến những tác động tiêu cực và khó kiểm soát, hoặc có thể dẫn đến hiện tượng nhiều nhiệm vụ của Nhà nước sẽ không được cấp nào quan tâm thực hiện hoặc có được thực hiện cũng sẽ kém hiệu lực, hiệu quả. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chính quyền địa phương không còn khả năng, điều kiện để thực hiện việc tự kiểm soát các hoạt động của mình, các chủ thể kiểm soát khác cũng khó có khả năng đưa ra các phán quyết công bằng về sự đúng – sai trong hoạt động của chính quyền địa phương.
Thứ sáu, các bộ, ngành cần đánh giá kỹ lưỡng một cách tổng thể hệ thống pháp luật trong từng ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật có liên quan đến phân cấp, phân quyền cho phù hợp với đặc thù của ngành, lĩnh vực, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn và đặc thù của các địa phương nhằm phát huy năng lực quản lý của các cấp chính quyền, tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội tại các địa phương và cả nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.
5. Kết luận
Có thể nói, chủ trương phân quyền, phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ là hướng đi đúng đắn, nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức hoạt động của các địa phương. Trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu nhất định trong việc tạo khung pháp lý cơ bản về phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa trung ương và chính quyền địa phương các cấp, pháp luật về phân quyền, phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước vẫn còn một số hạn chế, bất cập, nhất là trong việc kiểm soát quyền lực của cơ quan được phân cấp, phân quyền. Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong phân cấp, phân quyền, bảo đảm việc kiểm soát giữa trung ương và chính quyền địa phương, có sự tham gia giám sát thực sự của cả hệ thống chính trị và cả người dân, tăng cường sự minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ quan được phân cấp, phân quyền; đồng thời, phát huy năng lực, tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của quản lý nhà nước trong giai đoạn mới.
Chú thích:
1. Viện Ngôn ngữ học (2002). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 772.
2. Viện Ngôn ngữ học (2002). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 770 – 771.
3. Viện Ngôn ngữ học (2002). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 815.
4. Viện Ngôn ngữ học (2002). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 523.
5. Quốc hội (2012). Khoản 2 Điều 6 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012.
6. Quốc hội (2019). Khoản 5 Điều 105 Luật Giáo dục năm 2019.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Chính phủ (2020). Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
3. Chính phủ (2021). Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
4. Chính phủ (2022). Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Quốc gia Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
7. Quốc hội (2020). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
8. Quốc hội (2013). Luật Đất đai năm 2013.
9. Quốc hội (2019). Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).