ThS. Lê Thạc Diên
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
(Quanlynhanuoc.vn) – Chất lượng của giảng viên là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một đơn vị giáo dục – đào tạo. Bằng phương pháp định tính nhằm thu thập dữ liệu dưới dạng văn bản, quyết định (dữ liệu dạng chữ) mô tả và phân tích những khó khăn, thách thức trong nâng cao năng lực số cho giảng viên, trên cơ sở đó, nghiên cứu và thảo luận về năng lực số của giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong và đưa ra một số kết luận và giải pháp nhằm nâng cao năng lực số cho giảng viên trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Năng lực số; giảng viên; nâng cao; hội nhập quốc tế; Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số là xu hướng phát triển tất yếu, mang lại nhiều cơ hội, đồng thời đặt ra nhiều thách thức, tác động mạnh mẽ đến giáo dục – đào tạo nói chung, đào tạo lý luận chính trị nói riêng. Theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 và Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định rõ yêu cầu chuyển đổi số trong đào tạo, trong đó có yêu cầu phát triển năng lực số của giảng viên tại các trường học ở Việt Nam hiện nay.
Thời gian qua, Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội đã thực hiện nhiều giải pháp từng bước đầu tư, phát triển các nền tảng hỗ trợ cho hoạt động chuyên môn, học thuật, thay đổi phương pháp dạy học tích cực hiện đại, bồi dưỡng tập huấn giảng viên sử dụng phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy, thi hết học phần… qua đó phần nào đáp ứng được việc dạy và học, nhất là trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vào năm 2021 và đầu năm 2022. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số và yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục – đào tạo, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng cao, đòi hỏi giảng viên cần có một nền tảng năng lực số phù hợp, đáp ứng các yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong tình hình mới.
Bài viết tập trung xem xét các mô hình năng lực số đang được áp dụng toàn cầu, trên cơ sở đó,thực hiện phân tích năng lực số của giảng viên tại Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong. Từ đó làm cơ sở đề xuất khung năng lực số cụ thể cho giảng viên có tiềm năng áp dụng trong giáo dục – đào tạo hiện nay.
2. Khung năng lực số và phương pháp nghiên cứu
2.1. Khung năng lực số
Năng lực số (Digital competence) là một khái niệm bao trùm nhiều phương diện của vấn đề thích ứng công nghệ số trong bối cảnh xã hội hiện nay (không chỉ là năng lực ứng dụng công nghệ thông tin). Đến nay, cũng được nhắc nhiều đến trong những nghiên cứu khác nhau trên các phương diện, như: “digital literacy” (xóa mù số hay kiến thức/hiểu biết kỹ thuật số), “digital skills” (kỹ năng kỹ thuật số), hay “digital competences” (năng lực kỹ thuật số).
Dù có những sự khác biệt nhất định trong cách định nghĩa, “năng lực kỹ thuật số” có thể được hiểu là: “Khả năng truy cập, quản lý, hiểu, tích hợp, giao tiếp, đánh giá và tạo ra thông tin một cách an toàn và hợp lý thông qua các công nghệ số nhằm phục vụ các mục đích học tập, nghiên cứu, giải trí và các mục đích làm việc chuyên nghiệp khác. Trình độ kỹ thuật số cần thiết gắn liền với trình độ về máy tính, trình độ công nghệ thông tin, trình độ thông tin số và các phương tiện truyền thông”1.
Theo khung năng lực số của UNESCO đã đề xuất một phiên bản khung tiềm lực số trên cơ sở bổ sung vào những nội dung hiện có của khung tiềm lực số châu Âu DigComp 2.0 (UNESCO, 2018; Vuorikari et al, 2016), được mô tả 7 nhóm sau: (1) Nhóm hoạt động thiết bị và phần mềm; (2) Nhóm năng lực thông tin và dữ liệu; (3) Nhóm giao tiếp và hợp tác; (4) Nhóm sáng tạo nội dung số; (5) Nhóm an ninh; (6) Nhóm giải quyết vấn đề; (7) Nhóm năng lực liên quan đến nghề nghiệp. Như vậy, “Năng lực số là khả năng truy cập, quản trị, thấu hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục vụ cho thị trường lao động phổ thông, các công việc cao cấp và khởi nghiệp kinh doanh”2.
Theo khung năng lực số Hội đồng Thủ thư Đại học Australian (CAUL-Council of Australian University Librarians) đã đưa ra định nghĩa về năng lực số và xây dựng một khung tiềm lực số dựa trên khung tiềm lực của Ủy ban Hệ thống Thông tin liên kết (JISC-Joint Information Systems Committee) (Council of Australian University Libararians, 2015). Coi tiềm lực số là một phần quan trọng trong sự thành công của xã hội số, bao gồm: Có khả năng nhận thức và thực hành xã hội rất cần thiết để dùng các phương thuận tiện, thông tin và công nghệ để đạt được những lợi thế nhất định theo những cách độc đáo và có tính sáng tạo nhằm tối ưu hóa giá trị cá nhân, cơ quan tổ chức và Doanh nghiệp (Ingelbrecht et al., 2015), khung tiềm lực số của CAUL bao gồm 6 nhóm sau: (1) Nhóm có khả năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; (2) Nhóm học tập và phát triển kỹ năng số; (3) Nhóm sáng tạo số, giải quyết vấn đề và đổi mới; (4) Nhóm hợp tác, truyền thông và hội nhập; (5) Nhóm năng lực thông tin, tiềm lực truyền thông, năng lực và hiểu biết về dữ liệu; (6) Nhóm danh tính số và cảm nhận hạnh phúc. Theo đó, nhóm năng lực sáng tạo, giải quyết vấn đề của CAUL được UNESCO chia làm 2 nhóm riêng biệt. UNESCO quan tâm đến các năng lực liên quan đến nghề nghiệp, còn CAUL lại nhấn mạnh vào năng lực học tập và phát triển kỹ năng số.
Ngoài những khác biệt kể trên, có thể nhận thấy, hai khung năng lực số này có những nhóm năng lực tương đồng rõ rệt, như: thiết bị, phần mềm và công nghệ, năng lực thông tin và dữ liệu, giao tiếp và hợp tác, an ninh và cảm nhận hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu như khung năng lực số của UNESCO có thiên hướng đo lường và đánh giá năng lực số thông qua việc liệt kê những tương tác mang tính kỹ thuật thì khung năng lực số của CAUL tỏ ra mềm dẻo hơn và cung cấp các tiêu chí đánh giá theo 3 phương diện: (1) Thuộc tính của năng lực; (2) Kiến thức cần nắm được; (3) Các khả năng, kỹ năng cần đạt được. Điều này cũng dẫn đến cách tiếp cận khác nhau ở một số nhóm năng lực như giao tiếp và hợp tác, an ninh và cảm nhận hạnh phúc, giải quyết vấn đề. UNESCO thường tập trung vào các ứng dụng, dịch vụ, thiết bị cụ thể trong khung năng lực của mình, còn CAUL mô tả các năng lực một cách khái quát hơn và đề cập nhiều hơn đến phương diện thái độ, tinh thần của con người.
Trong chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, chúng ta đã nêu rõ việc “xây dựng và tổ chức triển khai chuẩn kỹ năng số và khung kỹ năng số quốc gia, trong đó, xác định các kỹ năng cần thiết, trình độ đáp ứng, phù hợp theo từng đối tượng. Thiết lập và tổ chức triển khai nền tảng sát hạch trực tuyến đánh giá, đo lường kỹ năng số cho từng đối tượng lao động, công chức, viên chức, sinh viên, học sinh phù hợp chuẩn kỹ năng số quốc gia” (Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, sử dụng phương pháp đề xuất mô hình nghiên cứu dựa trên cơ sở so sánh, kế thừa hai khung năng lực của UNESCO và CAUL, đồng thời xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc của giảng viên lý luận chính trị, từ đó gợi ý khung năng lực số cho giảng viên của Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong (thành phố Hà Nội).
Thứ hai, sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp, số liệu sơ cấp trên từ tài liệu, sách, báo, tạp chí, Internet và số liệu do các phòng ban chức năng cung cấp, điều tra xã hội học thông qua bảng hỏi…
Thứ ba, tổng hợp các dữ liệu bằng phương pháp thống kê, mô tả sau đó tiến hành phân tích, so sánh để xử lý dữ liệu và đưa ra nhận định làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Khung năng lực số của giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
Năng lực số của giảng viên nói chung, giảng viên lý luận nói riêng là điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong môi trường chuyển đổi số. Năng lực số giúp cho giảng viên không chỉ sử dụng công nghệ trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà còn là cơ sở hình thành tư duy, thái độ và phương thức làm việc hiệu quả. Trên cơ sở so sánh, kế thừa hai khung năng lực của UNESCO và CAUL, đồng thời yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc của người giảng viên lý luận Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành Phố Hà Nội cần có như sau:
(1) Năng lực vận hành thiết bị và phần mềm công nghệ: là khả năng vận hành thiết bị công nghệ của giảng viên biểu hiện trước hết là việc nhận biết chức năng và tính năng của công nghệ, lựa chọn các phần mềm công nghệ hỗ trợ hiệu quả cho yêu cầu công việc. Ngoài ra, còn thể hiện ở khả năng vận hành thiết bị công nghệ, kỹ năng sử dụng các phần mềm công nghệ, đáp ứng yêu cầu công việc.
(2) Năng lực thông tin, xử lý dữ liệu: là nhận biết và nắm rõ được thông tin cần thiết; đánh giá tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin; sắp xếp, lưu trữ và quản lý dữ liệu và thông tin hiệu quả; sử dụng các công cụ và kỹ thuật để phân tích và xử lý dữ liệu; rút ra những thông tin và kiến thức hữu ích. Xử lý thông tin một cách hiệu quả với sự hỗ trợ của công nghệ, mong muốn và giải quyết vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh giá thông tin và tư duy phản biện, lưu trữ và tổ chức thông tin, sử dụng và phân phối thông tin.
(3) Năng lực giao tiếp, hợp tác: trong môi trường công nghệ số, đó là khả năng liên kết giữa đội ngũ giảng viên, giữa người dạy và người học… Năng lực này không chỉ được thể hiện qua mối quan hệ các thành viên trong một đơn vị, một trường mà là mối quan hệ không giới hạn. Đó có thể là mối liên hệ của giới khoa học trong nước, khu vực và thế giới; là mối quan tâm chung của cả các trường học với các đơn vị, tổ chức, quản lý xã hội… Khả năng tương tác, giao tiếp và hợp tác thông qua công nghệ số thể hiện ở mức độ nhận thức của giảng viên về trách nhiệm của mình trong các mối quan hệ được tạo lập từ môi trường số hóa.
(4) Sáng tạo nội dung số: bao gồm khả năng phát triển nội dung số, đó là yêu cầu tạo lập, số hóa nội dung tri thức mới của giảng viên tham gia làm giàu cho hệ tri thức khoa học nhân loại. Sản phẩm tạo ra được thực hiện trên cơ sở sử dụng các tính năng công nghệ hiện đại, là những bài giảng giàu tri thức, có sức hút bởi sự linh hoạt và phong phú trong các hình ảnh, âm thanh giảng viên sử dụng.
(5) Năng lực an ninh, an toàn: trong khi thực hiện nhiệm vụ, giảng viên cần hiểu rõ những tác động của công nghệ số đối với bản thân, các đối tác và thành viên tham gia. Bên cạnh hoạt động của các cơ quan hữu quan về bảo đảm an ninh, an toàn cho các cá nhân tham gia hoạt động trong môi trường số, mỗi giảng viên cần có khả năng tự bảo vệ mình và bảo vệ đối tác. Năng lực an ninh, an toàn của giảng viên biểu hiện ở mức độ nhận thức về các nguy cơ có thể xảy ra, hiểu về các biện pháp an toàn và an ninh, biết chia sẻ và sử dụng thông tin trên môi trường số không trái với các quy định hiện hành.
(6) Học tập và phát triển kỹ năng số: bao gồm khả năng tìm kiếm và học hỏi các kiến thức và kỹ năng mới về công nghệ số; áp dụng các kiến thức và kỹ năng mới để giải quyết các vấn đề thực tế.Nhóm năng lực số này giúp giảng viên tận dụng được các lợi ích của công nghệ số và đạt được nhiều thành công trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học…
3.2. Thực trạng năng lực số của giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
Hiện đội ngũ giảng viên cơ hữu của Nhà trường là 67/105 người, 98,5% giảng viên có trình độ thạc sĩ, trong đó có 13 tiến sĩ (chiếm 19,4%), 1 phó giáo sư (chiếm 1,49%). Những năm qua, Trường đã tích cực thay đổi phương pháp dạy học hiện đại, bước đầu áp dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, chương trình đào tạo, nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo trong và ngoài thành phố về thay đổi phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học. Tập huấn cho giảng viên tiếp cận các phần mềm công cụ số, như:Microsoft teams, hệ thống đào tạo trực tuyến LMS… áp dụng cho quá trình dạy học và nghiên cứu khoa học.
Qua thu thập số liệu 58 phiếu trả lời của giảng viên, thỏa mãn điều kiện về kích thức mẫu nghiên cứu. Phiếu khảo sát tập trung khai thác các năng lực số theo khung năng lực số của giảng viên như sau:

Từ bảng 1 cho thấy, năng lực vận hành thiết bị và phần mềm công nghệ của bản thân trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trong đó: (1) Năng lực nhận biết – lựa chọn và sử dụng các chức năng và tính năng của các thiết bị số như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng,… được giảng viên đánh giá đạt tốt là 67,2% và trung bình là 5,5%; (2) Năng lực nhận biết, hiểu được dữ liệu, thông tin và/hoặc nội dung số cần thiết để vận hành phần mềm và công nghệ được giảng viên đánh giá chiếm tỷ lệ đạt tốt là 55,2 % và trung bình chỉ có 8,6 %.

Ở bảng 2 thể hiện 5 loại năng lực thông tin và dữ liệu trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trong đó: (1) Năng lực nhận biết và nắm rõ được thông tin cần thiết được giảng viên đánh giá tốt là 58,6 % và trung bình là 5,2 %; (2) Năng lực đánh giá tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin được giảng viên đánh giá tốt vẫn chiếm tỷ lệ 56,9 % cao nhất và chỉ có 5,2 % trung bình; (3) Năng lực sắp xếp, lưu trữ, quản lý dữ liệu và thông tin hiệu quả được giảng viên đánh giá khá chiếm 44,8 % và 5,2 % trung bình; (4) Năng lực sử dụng các công cụ và kỹ thuật để phân tích và xử lý dữ liệu được giảng viên đánh giá đạt khá là 48,3 % và 12,1 % trung bình; (5) Năng lực rút ra những thông tin và kiến thức hữu ích được giảng viên đánh giá đạt 46,6 % tốt và 5,2 % trung bình.

Ở bảng 3, đánh giá 4 năng lực, trong đó: (1) Khả năng giao tiếp, hợp tác hiệu quả với người khác thông qua các phương tiện và công cụ trực tuyến được giảng viên đánh giá đạt tốt là 51,7 % tốt và 6,9 % trung bình; (2) Năng lực tạo ra các sản phẩm nội dung số như văn bản, hình ảnh, video,… được giảng viên đánh giá tốt là 39,7 % và yếu là 1,7% yếu; (3) Sử dụng các công cụ và kỹ thuật sáng tạo để tạo ra nội dung số được đánh giá khá chiếm 58,6 %; (4) Khả năng truyền tải nội dung số đến người dùng một cách hiệu quả được giảng viên đánh giá đạt khá là cao nhất, chiếm 41,4 % và trung bình: 17,2 %.

Nhìn vào bảng 4 cho thấy, mức độ của hai loại năng lực: (1) Hiểu biết về các loại mối đe dọa an ninh và an toàn trên không gian mạng, như tấn công mạng, lừa đảo trực tuyến,… được giảng viên đánh giá cao nhất là tốt chiếm 51,7 %; (2) Năng lực nhận biết các dấu hiệu của mối đe dọa an ninh và an toàn trên không gian mạng, như email lừa đảo, trang web giả mạo,… được giảng viên đánh giá cao nhất là tốt chiếm 50 %.

Với năng lực học tập và phát triển kỹ năng số trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học thể hiện ở bảng 5 cho thấy: (1) Năng lực tìm kiếm và học hỏi các kiến thức và kỹ năng mới về công nghệ số được giảng viên đánh giá ở mức cao nhất là khá (chiếm 44,8 %); (2) Năng lực áp dụng các kiến thức và kỹ năng mới để giải quyết các vấn đề thực tế, nghiên cứu lý luận được giảng viên đánh giá ở mức cao nhất là tốt (chiếm 44,8 %).
3.3. Đánh giá thực trạng năng lực số của giảng viên trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
Từ kết quả trên, có thể nhận định năng lực số của giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội hiện nay được xem xét ở mức độ có thể đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học, cụ thể năng lực nhận biết – lựa chọn và sử dụng các chức năng và tính năng của các thiết bị số như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng,… được đánh giá ở mức khá cao (chiếm 67,2%).
Tuy nhiên, về kiến thức và kỹ năng ứng dụng công nghệ của đội ngũ giảng viên còn nhiều bất cập. Mặt bằng trình độ công nghệ thông tin của đội ngũ gỉng viên không đồng đều. Nhiều giảng viên giỏi chuyên môn nhưng khả năng sử dụng công nghệ chưa cao, kỹ năng thiết kế bài giảng, khóa học trên nền tảng kỹ thuật số chưa thành thạo. Việc thiết kế kịch bản dạy học, xây dựng hình ảnh, video clip, tích hợp các trang màn hình… đối với nhiều giảng viên còn mới lạ.
Tư duy, phong cách giảng dạy ít thay đổi trong điều kiện chuyển đổi số. Nhiều giảng viên còn ỳ trệ, thụ động, ngại thay đổi hoặc dạy học trên nền tảng số một cách đối phó, tính sáng tạo mờ nhạt. Thậm chí, nhiều bài giảng không khác bài giảng truyền thống dù có hỗ trợ của công nghệ hiện đại. Do nhận thức chưa đầy đủ về tính tất yếu khách quan của sự chuyển đổi phương thức dạy học trong môi trường công nghệ, do ý thức thiếu tích cực của cả giảng viên và học viên, cộng với phong cách tư duy và tâm thế làm việc cũ kỹ, thiếu động cơ tích cực nên năng lực số của đội ngũ vốn đã yếu lại có nhiều lực cản trong quá trình phát triển.
Về năng lực giao tiếp và hợp tác trên môi trường công nghệ số của giảng viên. Còn không ít giảng viên thiếu tích cực khi trao đổi, hợp tác chuyên môn với đồng nghiệp. Do tâm lý e ngại, sự ích kỷ về tri thức, không muốn chia sẻ với đồng nghiệp; sự kết nối lỏng lẻo, hạn chế của đội ngũ giảng viên giữa các trường chính trị, giữa giảng viên với các tổ chức liên quan đến lĩnh vực đào tạo của nhà trường, giữa giảng viên với học viên… thể hiện những hạn chế về năng lực giao tiếp trên nền tảng số của đội ngũ này. Điều này được thể hiện qua đánh giá của giảng viên về khung năng lực số, cụ thể: năng lực tạo ra các sản phẩm nội dung số như văn bản, hình ảnh, video… chiếm 1,7% yếu.
3.4. Nguyên nhân của hạn chế
(1) Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục nói chung và đào tạo trung cấp lý luận chính trị nói riêng đã được quan tâm, song hành lang pháp lý và các quy định cụ thể quản lý, vận hành đào tạo vẫn đang trong quá trình hoàn thiện;
(2) Các văn bản hướng dẫn triển khai mang tính thời điểm, chưa xây dựng lộ trình và quy cách thực hiện mang tính đồng bộ, thống nhất;
(3) Cơ sở dữ liệu kết nối các trường trong hệ thống được xây dựng, phát huy hiệu quả trong công tác quản lý. Song, dữ liệu khoa học dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo chưa nhiều, chưa thật sự thông suốt và tiện ích. Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học, các dữ liệu trên nền tảng số phải là nền tảng dữ liệu mở, liên tục được cập nhật từng ngày;
(4) Hành lang pháp lý chung cho vệc xây dựng, cập nhật số hóa dữ liệu còn chưa rõ ràng. Những vấn đề về bản quyền, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử… còn rất nhiều bất cập, làm hạn chế cả hiệu quả quản lý và mức độ tham gia dạy và học trong môi trường số. Yếu tố này tác động mạnh mẽ, thậm chí sự không minh bạch, làm hạn chế, triệt tiêu động cơ, động lực phát triển năng lực số của đội ngũ giảng viên.
(5) Hạ tầng mạng, trang thiết bị công nghệ thông tin, đường truyền, dịch vụ internet của trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành Phố Hà Nội chưa đồng bộ chuyển đổi số.
(6) Năng lực số của giảng viên không đồng đều do các cá nhân chủ yếu tự học, tự bồi dưỡng mà chưa được đào tạo cơ bản, bài bản, cụ thể kết quả khảo sát giảng viên tham gia các lớp học đào tạo, tập huấn về phát triển kỹ năng số của cá nhân trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học chỉ có 31% giảng viên đã tham gia, 10,3% giảng viên đang tham gia còn lại 58,6% giảng viên chưa được tham gia. Mức độ tham gia, đóng góp cho kho học liệu số của giảng viên còn rất hạn chế. Việc số hóa kho học liệu, thẩm định, chia sẻ nguồn học liệu… cần sự đầu tư của nhà trường và sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.
4. Một số giải pháp nâng cao năng lực số cho giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
Thứ nhất, đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành Phố Hà Nội
(1) Cần nhận thức đúng và sâu sắc chuyển đổi số là tất yếu, là sự sống còn của đào tạo lý luận trong bối cảnh hiện nay. Đào tạo và nghiên cứu khoa học trên môi trường công nghệ số không phải là nhất thời, mà là xu hướng khách quan của sự tồn tại;
(2) Cần không ngừng tìm tòi, tự bồi dưỡng và phát triển năng lực số thông qua nền tảng dữ liệu mở;
(3) Tăng cường giao tiếp và hợp tác trên nền tảng số, mặt khác, từng bước xây dựng văn hóa giao tiếp trên không gian số, xác lập mối quan hệ hợp tác trên phương diện học thuật mang tính hiệu quả và văn minh; Cần tích cực và sáng tạo bằng nhiều hình thức khác nhau khi tham gia xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu gồm cả nội dung và hình thức xây dựng kho học liệu có chất lượng cho cộng đồng. Nâng cao tính trách nhiệm xã hội khi chia sẻ và khai thác thông tin trong môi trường số.
Thứ hai, đối với trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành Phố Hà Nội
(1) Cần chú trọng triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ và thống nhất với cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành;
(2) Đầu tư cơ sở hạ tầng mạng và thiết bị thông tin đồng bộ, hiệu quả phục vụ cho công tác dạy và học;
(3) Hoàn thiện các quy định trong quản lý quá trình dạy học trên cơ sở và coi đây là hoạt động trung tâm, then chốt của nhà trường, tạo điều kiện tốt nhất, bảo đảm quyền lợi cao nhất nhằm thúc đẩy, tạo động lực cho đội ngũ giảng viên nâng cao năng lực số;
(4) Thúc đẩy phát triển kho học liệu số phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trên cơ sở thẩm định chặt chẽ về chất lượng;
(5) Khuyến khích và có cơ chế thưởng, phạt minh bạch đối với giảng viên trong việc thực hiện trách nhiệm đóng góp phát triển nhà trường, cho xã hội trên nền tảng số;
(6) Đào tạo, bồi dưỡng năng lực số, kỹ năng số thường xuyên cho giảng viên phải được xác định là giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài có ý nghĩa quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ hiện nay.
5. Kết luận
Trong giáo dục – đào tạo nói chung, giáo dục đào tạo lý luận chính trị nói riêng ngày nay tất yếu đòi hỏi giảng viên cần phải có năng lực số cần thiết để có thể sử dụng công nghệ số nhằm phục vụ và nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Nghiên cứu này bước đầu đã đề xuất khung năng lực số cho giảng viên trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội, cho thấy thực trạng năng lực số của giảng viên ở mức trung bình đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số, phân tích đánh giá các năng lực số của giảng viên. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao năng lực số cho giảng viên trong thời gian tới, góp phần thực hiện mục tiêu chung của Trường.
Chú thích:
1. Dragonhair (2023). Khung năng lực số cho ngành In (I): Khung năng lực số là gì? https://prima.vn/11203-2/
2. UNESCO (2018). A Global Framework of Reference on Digital Literacy Skills for Indicator 4.4.2. http://uis.unesco.org, truy cập ngày 20/8/2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Cẩm nang chuyển đổi số. H. NXB Thông tin và truyền thông.
2. Council of Australian University Libararians (2015). Digital Dexterity Framework.
3. Ingelbrecht, N., Gotta, M., & Scheibenreif, D (2015). Defining Digital Dexterity – the Core Workforce Resource for the Digital Business. Gartner, Inc.
4. Thủ tướng Chính phủ (2017). Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
5. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.