Giá trị tư tưởng Ph. Ăngghen về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”

TS. Đỗ Thanh Hải
ThS. Nguyễn Văn Xuân 
ThS. Lê Khắc Sơn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tư tưởng triết học Ph. Ăngghen vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại đối với củng cố niềm tin vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt, sự quyết liệt đấu tranh chống lại những quan điểm sai lầm của Đuyrinh, bảo vệ tư tưởng của C.Mác về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm “Chống Đuyrinh còn nguyên giá trị vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay.

Từ khóa: Quan điểm duy vật biện chứng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh chống quan điểm duy tâm, siêu hình của Đuyrinh.

1. Đặt vấn đề

Tác phẩm Chống Đuyrinh được Ph.Ăngghen viết từ tháng 9/1876 – 6/1878. Thời kỳ này ở nước Đức, tình hình tư tưởng, lý luận hết sức phức tạp, chủ nghĩa cơ hội, xét lại chống chủ nghĩa Mác “mọc ra như nấm sau một trận mưa”. Trong đó, học thuyết mang tên “Ông Ơgiêni Ơ. Đuyrinh” nổi lên là một học thuyết hết sức phản động về phương diện chính trị, sai trái về phương diện khoa học, chống phá Mác quyết liệt. Ơ. Đuyrinh đã công kích chủ nghĩa Mác là “cũ rích”, là “phi khoa học” đòi gạt bỏ ra khỏi phong trào công nhân. Trước tình hình đó và thể theo lời đề nghị của Lipnếch – một trong những người sáng lập và là lãnh tụ của Đảng dân chủ – xã hội Đức nhận thấy mức độ nguy hại của chủ nghĩa Đuyrinh trong phong trào công nhân, Ph.Ăngghen đã phải tạm gác một số công việc theo kế hoạch để viết bài Chống Đuyrinh, thông qua đó làm nổi bật nội dung cũng như giá trị tư tưởng về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm.

Tư tưởng của Ph.Ăngghen khẳng định rõ sức sống bền vững, là một bộ phận quan trọng cấu thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng, công cụ nhận thức vĩ đại, cung cấp những luận cứ khoa học đầy sức thuyết phục cho nhận thức đúng đắn về thế giới đương đại và vững tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng như vào con đường cách mạng Việt Nam.

2. Những giá trị tư tưởng về chủ nghĩa duy vật biện chứng của Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”

Một là, Chống Đuyrinh được xem là mẫu mực của lối văn luận chiến sắc sảo, trình bày khúc chiết, “hết sức rõ và tỉ mỉ”1 về quan điểm duy vật biện chứng. Ph.Ăngghen đã đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng, dựa trên những kiến thức uyên bác về các lĩnh vực, đặc biệt là khoa học tự nhiên để chống Đuyrinh. Ông đã lần theo “dấu vết” của từng luận điểm chống phá Mác một cách tinh vi, xảo quyệt của Đuyrinh, chỉ ra đâu là luận điểm cóp nhặt, đâu là luận điểm xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tư tưởng của Mác, gắn cho Mác “những điều hoàn toàn do ông Đuyrinh bịa đặt ra”2

Dưới hình thức luận chiến, ngòi bút sắc sảo, lập luận chặt chẽ không thể bác bỏ, Ph.Ăngghen đã kiên quyết đấu tranh vạch trần những sai lầm trong từng tư tưởng triết học và trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học của Đuyrinh. Qua đó góp phần bảo vệ những nguyên lý khoa học, cách mạng của triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung và trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ph. Ăngghen không chỉ bảo vệ xuất sắc mà còn phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới bất chấp mọi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch. Từ đó Ph. Ăngghen đã cung cấp một hệ thống toàn diện những nguyên lý cơ bản, mang tính bao trùm và thể hiện sự chín muồi về thế giới quan duy vật biện chứng, sự vững chắc về bản lĩnh trong bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, toàn bộ nội dung triết học Mác được trình bày có hệ thống, trở thành tác phẩm gối đầu giường của người công nhân có tri thức.

Tác phẩm có giá trị lớn, khẳng định sức mạnh lý luận trong cuộc chiến chống những tư tưởng tấn công, xuyên tạc triết học Mác. V.I. Lênin đánh giá cao Ph. Ăngghen và nhấn mạnh: “Muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của C. Mác, tuyệt đối phải đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất của Mác là Phi-đrích Ăng-ghen3

Với sự đấu tranh, phê phán Đuyrinh có hiệu quả, Ph.Ăngghen đã làm cho hệ thống lý luận của Đuyrinh và tất các quan điểm khác mất sức ảnh hưởng trong xã hội, từ đó đã góp phần bảo vệ, phát triển và đưa triết học Mác vào phong trào công nhân Đức, xoá đi đám mây mờ đang bao phủ phong trào công nhân. Thông qua luận chiến chống Đuyrinh đã thể hiện kiểu mẫu về tính đảng, lập trường duy vật triệt để cũng như trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp, sự hiểu biết tường tận các lĩnh vực, nhất là tri thức về khoa học tự nhiên và triết học của Ph.Ăngghen trong đấu tranh với kẻ thù của chủ nghĩa Mác. Qua đóuy tín khoa học, nghị lực phi thường, trí tuệ sáng suốt của Ph. Ăngghen ngày càng được khẳng định và lan tỏa mạnh mẽ trong phong trào đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, là kiểu mẫu trong đấu tranh bảo vệ, phát triển triết học Mác. 

Hai là, những đóng góp về tư tưởng lý luận của tác phẩm là hết sức to lớn đối với việc tiếp tục bổ sung, bảo vệ, phát triển học thuyết Mác. Trong tác phẩm, Ph.Ăngghen có công lao to lớn cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của triết học Mác; vạch trần sự xuyên tạc, bóp méo trắng trợn triết học Mác của Đuyrinh; đồng thời, bảo vệ lý luận của C.Mác về chủ nghĩa duy vật biện chứng, về thế giới quan duy vật, thông qua phê phán quan điểm duy tâm của Đuyrinh. Ph.Ăngghen đã bảo vệ, bổ sung và phát triển lý luận triết học về tính không thể sáng tạo được và tính bất diệt của vật chất, về mối quan hệ vật chất và ý thức, đưa đến sự nhận thức nhất quán về quan điểm triết học Mác về thế giới quan duy vật.

Với việc luận giải những quy luật chung nhất, phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, Ph.Ăngghen tiếp tục khẳng định tính đúng đắn trong tư tưởng phép biện chứng của Mác; làm sáng tỏ thêm về nội dung của phép biện chứng của Mác; đấu tranh không khoan nhượng với Đuyrinh để bảo vệ phép biện chứng duy vật khỏi sự xuyên tạc, bịa đặt của Đuyrinh. Thông qua trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng, Ph.Ăngghen đã đánh giá khách quan những cống hiến và hạn chế của các hình thức phát triển phép biện chứng trong lịch sử. Ông đánh giá cao cống hiến của Hêghen: “Nền triết học mới của Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hê-ghen”4

Ph.Ăngghen khẳng định công lao lịch sử của Hêghen nhưng chỉ rõ, bởi những hạn chế trong tri thức của bản thân và bởi những tri thức và quan niệm của thời đại; ngoài ra, Hêghen là một nhà duy tâm cho nên “tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các hiện tượng của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược”; cho nên “hệ thống Hêghen cũng không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”5. Mâu thuẫn giữa phương pháp cách mạng với hệ thống bảo thủ trong triết học Hêghen là “mâu thuẫn bên trong không thể cứu chữa được”6.

Từ đó, Ph.Ăngghen đi đến khẳng định, việc hiểu được tính chất hoàn toàn sai lầm của chủ nghĩa duy tâm Đức mà đại biểu tiêu biểu là Hêghen, nhất định sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật ra đời một phần có sự đóng góp quan trọng của phép biện chứng duy tâm khách quan của G.Hêghen với tư cách là một nguồn gốc lý luận trực tiếp. Tuy nhiên, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác về chất so với phép biện chứng duy tâm của G.Hêghen, thậm chí còn đối lập với nó. Phép biện chứng G.Hêghen là phép biện chứng của ý niệm, phép biện chứng duy tâm; phép biện chứng của C.Mác dựa trên lập trường duy vật, phản ánh đúng đắn quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, mang bản chất khoa học, cách mạng, là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. 

Ba là, tư tưởng Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật biện chứng góp phần quan trọng tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong quan niệm biện chứng về lĩnh vực xã hội. Một trong những biểu hiện rõ nét nhất chính là sự “mở rộng” chủ nghĩa duy vật biện chứng sang lĩnh vực xã hội để chứng minh cho tính đúng đắn của các quan điểm triết học duy vật biện chứng của C. Mác, đồng thời thông qua phép biện chứng duy vật còn có nhiệm vụ chứng minh cho sự tất yếu tiêu vong của chủ nghĩa tư bản. Nhờ đó, học thuyết Mác không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính cách mạng; không chỉ mang đến cho giai cấp công nhân vũ khí lý luận đấu tranh sắc bén mà còn tham gia vào đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng tư tưởng hòng làm suy yếu vai trò của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. 

Giá trị lý luận của tác phẩm đã trực tiếp đi vào phong trào công nhân, đấu tranh và giác ngộ họ khỏi những thiên kiến và sự xuyên tạc trắng trợn của Đuyrinh. Trong tác phẩm này, chủ nghĩa duy vật biện chứng thống nhất với chủ nghĩa duy vật lịch sử, tính khoa học và tính cách mạng luôn gắn liền với nhau trong từng luận điểm cũng như trong toàn bộ hệ thống tư tuởng của Ph. Ăngghen. Nhờ vậy, Ph. Ăngghen đã tiếp tục khẳng định “sứ mệnh” cải tạo xã hội của triết học Mác, chứ không chỉ dừng lại ở nhận thức về xã hội như các quan điểm trước đó. 

Không dừng ở lĩnh vực tự nhiên, việc thừa nhận phép biện chứng duy vật còn dẫn đến quan niệm khoa học về lĩnh vực lịch sử, làm phá sản những học thuyết của khoa học kinh tế chính trị tư sản “về sự đồng nhất lợi ích của tư bản và lao động, về sự hòa hợp phổ biến và về phúc lợi phổ biến của nhân dân nhờ tự do cạnh tranh mà có, đã bị các sự kiện thực tế vạch trần ngày càng rõ là những lời giả dối”7. Từ đó Ph. Ăngghen đi đến khẳng định sự phá sản của quan điểm duy tâm cũ về lịch sử; khẳng định “những sự kiện mới buộc người ta phải nghiên cứu lại toàn bộ lịch sử từ trước tới nay và khi đó người ta thấy rằng toàn bộ lịch sử đã qua đều là lịch sử đấu tranh giai cấp”8. Những giai cấp đấu tranh với nhau bao giờ cũng là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi… “Do đó, chủ nghĩa duy tâm đã bị tống ra khỏi nơi ẩn náu cuối cùng của nó, tức là ra khỏi quan niệm về lịch sử”9. Những kết luận rút ra về tính tất yếu khách quan, phổ biến của phép biện chứng trong lĩnh vực xã hội, luận chứng về mâu thuẫn xã hội tất yếu trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; về tính tất yếu tự phủ định của chủ nghĩa tư bản mang tính cách mạng và là vũ khí lý luận sắc bén, khai sáng giai cấp vô sản, bóc trần bản chất của hệ thống triết học Đuyrinh bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. 

Bốn là, giá trị và ý nghĩa phương pháp luận đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nayTư tưởng cơ bản của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm trên giúp Đảng ta có thể nhìn nhận con đường phát triển của Đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa một cách rõ ràng hơn. Đó là cơ sở để tiếp tục khẳng định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn là đúng đắn, là quy luật tất yếu khách quan của lịch sử cũng như phù hợp với lợi ích, nguyện vọng và là sự chọn lựa của toàn dân tộc. 

Qua tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn thực chất của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trên phương diện kinh tế là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trên phương diện xã hội là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Có nghĩa là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta không có nghĩa là phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản. Thực chất là “bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”10. Quá trình đó có sự kế thừa những thành tựu nhân loại đạt được để phát triển nhanh lực lượng sảnxuất, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước.

Bản chất của quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là quá độ gián tiếp, là rút ngắn giai đoạn và bước đi của tiến trình lịch sử lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình khó khăn phức tạp, lâu dài, trải qua nhiều chặng đường, qua nhiều khâu trung gian, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ, trong quá trình thực hiện không được chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn. 

Có thể khẳng định, những nhận thức khoa học về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta chính là thể hiện sinh động của việc kế thừa những nguyên lý nền tảng và phát triển sáng tạo lý luận phù hợp với cách mạng Việt Nam của Đảng ta mà trong đó, tư tưởng cơ bản của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” là một cấu phần hết sức quan trọng.

3. Kết luận

Những lập luận của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa vật biện chứng trong tác phẩm còn nguyên giá trị trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, học thuyết Mác luôn phải đối mặt với những màn tấn công kịch liệt, những sự chống đối mạnh mẽ, hằn học nhất của các nhà tư tưởng và giai cấp tư sản. V.I. Lênin đã từng vạch trần thái độ cừu hận dã man nhất mà giai cấp tư sản và những nhà tư tưởng của họ dành cho C. Mác và Ph. Ăngghen: “Những sự truy nã không ngớt; chúng đón tiếp học thuyết của họ bằng một thái độ cừu hận dã man nhất, bằng một thái độ căm thù điên cuồng nhất, bằng những chiến dịch nói dối và vu cáo trắng trợn nhất. Sau khi họ chết, chúng tìm cách biến họ thành những thần tượng vô hại,… chúng tước hết nội dung của học thuyết cách mạng của họ đi, tầm hóa học thuyết đó và làm cùn khía sắc bén cách mạng của nó”11.

Ngày nay, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch tiếp tục tập trung tấn công phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng và giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, đối lập và đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm âm mưu phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta. 

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Ph. Ăngghen trong tác phẩm vào đấu tranh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Ðảng cần quán triệt chức năng “phê phán và cách mạng”12 của triết học Mác, khẳng định vai trò định hướng của triết học này trong nhận thức về những biến đổi đang diễn ra trong thế giới đương đại. Cần nhận thức rằng, đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin là vấn đề có tính tất yếu, xuyên suốt lịch sử hình thành gần 200 năm ra đời chủ nghĩa Mác mà bản thân các nhà kinh điển cũng luôn không ngừng đấu tranh để đập tan mọi sự xuyên tạc, chống phá từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác, trong đó đấu tranh của Ph. Ăngghen trong “Chống Đuyrinh” là một điển hình, tiêu biểu. 

Kế thừa và phát triển tư tưởng Ph. Ăngghen, trong giai đoạn hiện nay, việc giữ vững lập trường tính đảng trong triết học chính là “ngọn lửa thử vàng”, là nguyên tắc tối cao trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái. Sự kiên định của Ph.Ăngghen là kinh nghiệm quý trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, cần tiếp tục  kiên định và vận dụng, không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam; chống tư tưởng cơ hội xét lại học thuyết Mác – Lênin của các phần tử bất mãn, chống phá. 

Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái phải luôn kiên định lập trường tính đảng, nếu xa rời nguyên tắc tính đảng sẽ tất yếu dẫn tới thất bại trong mặt trận đấu tranh cam go, quyết liệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Đội ngũ những cây bút tham gia mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận phải có bản lĩnh vững vàng, tư duy chính trị sắc bén, kỹ năng cần thiết và có tâm huyết, phải thật sự là nòng cốt, hạt nhân tinh nhuệ, đấu tranh kịp thời với những quan điểm sai trái. Đó chính là những việc làm cần thiết để quán triệt nội dung và giá trị tư tưởng Ph. Ăngghen đấu tranh và bảo vệ triết học Mác trong tác phẩm Chống Đuyrinh.

Chú thích:
1, 12. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 23. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 50, 36.
2, 4, 5, 6, 7, 8, 9. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (2002). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 187, 39, 41, 41, 43, 43, 44.
3. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 26. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 110.
11. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 33. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 7.
10. Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 43.