Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên trong giai đoạn mới 

ThS. Lê Thị Hường
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ, đội ngũ trí thức đã trở thành nguồn lực quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, đội ngũ này là nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục ở bậc đại học nói riêng. Bài viết đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên trong giai đoạn mới.

Từ khóa: Đội ngũ trí thức; phát huy vai trò; Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên.

1. Đặt vấn đề

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao, coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”1. Đặc biệt, Người luôn đề cao vai trò của đội ngũ trí thức và coi “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”2. Nhiều trí thức đã có những cống hiến vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, đã đóng góp, cống hiến không chỉ sức lực, trí lực mà còn cả sinh mệnh của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức”3. Cùng với sự phát triển của đất nước, Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên đã chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, bởi họ là lực lượng nòng cốt trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển của Nhà trường. Nhà trường luôn chủ động xây dựng tầm nhìn chiến lược, đổi mới phương pháp giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội và yêu cầu ngày càng cao trong kỷ nguyên số. 

2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của đội ngũ trí thức

Thứ nhất, trí thức là một bộ phận trong lực lượng cách mạng.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đội ngũ trí thức và vai trò của trí thức trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Cụ thể, Người cho rằng: “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức”4, qua đó, đã khẳng định rõ quan điểm của Người về vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Phân tích hoàn cảnh xuất thân và địa vị xã hội của trí thức Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến (đa số xuất thân từ thành phần phú nông, địa chủ, tư sản; đều bị đế quốc áp bức) Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Trí thức Việt Nam có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng. Vì cũng có đầu óc dân tộc và vì có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp, nên dễ hấp thu được tinh thần cách mạng. Cũng vì vậy, lúc đã hiểu biết, trí thức ta dễ theo cách mạng”5. Người khẳng định: “Trí thức là một bộ phận trong lực lượng cách mạng. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam sẽ không hoàn thành được”6. Người xác định, trí thức chính là những người có tầm hiểu biết cao hơn so với mặt bằng chung của các tầng lớp giai cấp khác của dân tộc, vì vậy, trong giai đoạn này, trí thức phải có trách nhiệm đối với việc “khai dân trí, chấn dân khí”. Đó là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn này, bởi Người coi “giặc dốt” cũng là bạn đồng hành của giặc ngoại xâm. 

Chứng rõ điều này trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, đội ngũ trí thức đã hăng hái tham gia vào các phong trào yêu nước tích cực tham gia vào các tổ chức yêu nước để tuyên truyền, giác ngộ cách mạng. Trong cuộc kháng chiến cứu quốc, một số tri thức trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, sát cánh với bộ đội và Nhân dân.

Thứ hai, trí thức là nguồn vốn quý của dân tộc. 

Hồ Chí Minh nhận định: “Tri thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”7. Vì vậy, cần đào tạo cán bộ cho mọi ngành hoạt động và cần thiết phải có thầy giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức… Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”8. Vai trò của đội ngũ trí thức được Người khẳng định rõ: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội càng cần, tiến lên chủ cộng sản chủ nghĩa lại càng cần. Bởi vì xã hội tương lai là một xã hội không có phân biệt giữa trí óc và chân tay. Vì văn hóa ngày càng cao lên, thì thói quen của trí thức ngày càng hợp với lao động”9.

Với thời đại Hồ Chí Minh, đã có nhiều trí thức tự nguyện đi theo cách mạng và trở thành những nhà cách mạng lỗi lạc, giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng, Chính phủ như các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Tố Hữu… Nhiều nhân sĩ, trí thức đã trở thành anh hùng lao động có công lớn với cách mạng, với dân tộc, như các đồng chí: Trần Đại Nghĩa (tên thật là Phạm Quang Lễ), Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Lương Đình Của, Võ Quý Huân…; nhiều trí thức được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, như các đồng chí: Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Đỗ Tất Lợi, Đào Duy Anh, Lương Đình Của, Tôn Thất Tùng, Bùi Huy Đáp… Họ thực sự là vốn quý của dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta khẳng định trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia; bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược, là yếu tố quyết định tương lai của đất nước. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tri thức là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức; là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia”10.

Những giá trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đề cao vai trò của trí thức và phát huy tối đa sức mạnh của lực lượng này, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

3. Thực trạng đội ngũ trí thức Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên 

Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên đã trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, đã trở thành trường trọng điểm của cả nước về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông. Nhà trường với cơ cấu bộ máy tinh gọn, hiệu quả, trong đó Đảng ủy giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo; Hội đồng trường hoạch định, giám sát; Ban Giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và 2 Phó Hiệu trưởng) chỉ đạo điều hành các hoạt động của Nhà trường. Hiện nay, Trường có 343 viên chức, người lao động, trong đó có 287 giảng viên (chiếm 83,67%), (gồm 2 phó giáo sư, 50 tiến sỹ, 235 thạc sỹ, 56 viên chức, người lao động bộ phận hỗ trợ phục vụ). Số lượng viên chức, người lao động có bằng cao cấp lý luận chính trị: 21 người, chứng chỉ trung cấp lý luận chính trị: 11 người, cử nhân: 2 người11.

Hệ thống tổ chức quản lý của Trường được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn nhằm thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt, Nhà trường luôn đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị; thống nhất, cơ chế quản lý, điều hành, ra quyết định cũng như phối hợp các tổ chức đoàn thể khác.

Hằng năm, Ban Giám hiệu Trường, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Nhà trường, hoạch định và giám sát Hội đồng trường, đồng thời, lấy ý kiến tham mưu của các đơn vị trực thuộc Trường để phát triển giáo dục, đào tạo. Quản trị Nhà trường theo hướng tinh gọn, hiện đại, minh bạch, phát huy vai trò và tiếng nói của đội ngũ nhà giáo trong Nhà trường. 

Năm học 2022 – 2023, toàn trường đã được phê duyệt 8/5 đề tài khoa học – công nghệ cấp Đại học trở lên (đạt 160%), trong đó 2 đề tài cấp bộ, 1 đề tài cấp tỉnh, 5 đề tài cấp đại học; 22/30 đề tài cấp cơ sơ (đạt 73%); 65/35 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên (đạt 186%)12. Đặc biệt, đạt 1 sản phẩm nghiên cứu khoa học được Cục Sở hữu Trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích. 

Bên cạnh đó, có 215/105 bài báo đăng tải trên các tạp chí khoa học, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế (đạt 205%), trong đó 25 bài báo thuộc danh mục WoS13. Đặc biệt, tổ chức thành công Hội thảo quốc tế: “Những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông – ICTA2023” và cuộc thi “Sáng tạo, khởi nghiệp ICTU 2023”, tạo tiền đề cử sinh viên đi tham dự các cuộc thi khởi nghiệp, sáng tạo trẻ, IoT Starup, Techfest đạt nhiều giải thưởng cao. Đội ngũ giảng viên của trường đã thực hiện 46/40 buổi Seminar khoa học thuộc lĩnh vực chuyên môn, đạt 115%13. Thông qua hoạt động seminar được tổ chức, giảng viên và sinh viên có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu và học tập.

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu của nhóm tác giả là cán bộ giảng viên đã thực hiện thành công dự án quốc tế “Ứng dụng công nghệ số để tăng hiệu quả kinh doanh cho phụ nữ khuyết tật vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam” do đại sứ Canada tài trợ với tổng số tiền là 400 triệu đồng14. Đây là kết quả đóng góp to lớn đáng tự hào của nhiều chuyên gia nghiên cứu, các nhà khoa học đến từ cán bộ, giảng viên, sinh viên – đội ngũ trí thức ưu tú của Trường. 

Đến nay, Nhà trường cơ bản hoàn thành sứ mệnh của cơ sở giáo dục đại học, đã đào tạo được hơn 30.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ tốt nghiệp ra trường; được tặng Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cờ thi đua của tỉnh Thái Nguyên, Cờ thi đua của Công đoàn Giáo dục Việt Nam. Tiếp đó, phát huy truyền thống tốt đẹp về tinh thần đoàn kết, đổi mới sáng tạo và những thành tích đã đạt được, toàn thể viên chức, người lao động của Trường bước vào chặng đường mới hội nhập và phát triển.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số hạn chế, như: (1) Cơ cấu đội ngũ cán bộ, viên chức người lao động ở một số đơn vị chưa phù hợp với yêu cầu phát triển chung của nhà trường, đặc biệt là nhu cầu nhân lực chất lượng cao dành cho ngành Công nghệ thông tin và Truyền thông. (2) Số cán bộ có học hàm, học vị tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư còn khiêm tốn chưa đồng đều ở một số ngành; (3) Chưa có cơ chế phù hợp để thu hút, tuyển dụng cán bộ ở một số ngành đặc thù, khó tuyển; (4) Việc trao đổi học thuật trong đào tạo và nghiên cứu khoa học chưa được mở rộng do giảng viên, sinh viên còn hạn chế về ngoại ngữ. Chính vì vậy, đặt ra những thách thức, đòi hỏi phải có cơ chế phù hợp để phát huy có hiệu quả vai trò của đội ngũ trí thức của Nhà trường trong thời gian tới.

4. Một số giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức của Nhà trường

Một là, tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý, điều hành.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh giản, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phát huy vai trò của Hội đồng trường trong hệ thống quản trị; áp dụng các phương thức quản trị hiện đại; tận dụng tối đa các nguồn lực nhằm thực hiện chuyển đổi số toàn bộ trong công tác điều hành và quản lý. Theo đó, giảm thiểu được những thủ tục rườm rà trong cơ chế hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp trí thức thực hiện hiệu quả công tác quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, chuẩn hóa và xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp; nâng cao ý thức trách nhiệm, tính tự giác trong thực hiện nhiệm vụ, tạo môi trường đổi mới, sáng tạo, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng tổ, bộ môn, khoa, ban. Hằng năm đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức, người lao động để làm căn cứ xếp loại; đồng thời, bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách khác đối với viên chức. Việc xây dựng và hoàn thiện đánh giá, xếp loại chất lượng sẽ tạo động lực, khuyến khích các tầng lớp trí thức phát huy hết năng lực và trách nhiệm của mình.

Hội đồng trường và Ban Giám hiệu, cần ban hành quyết định bổ nhiệm và luân chuyển nhân sự một cách kịp thời nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, giảm thiểu rủi ro, bất cập giữa các chức năng, nhiệm vụ; đồng thời, phát huy năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên và sinh viên.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Cần tiếp tục triển khai rà soát, đánh giá Chiến lược phát triển nhà trường đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới mục tiêu trở thành trường đại học số đa ngành hàng đầu. Lãnh đạo Nhà trường, cần xây dựng Đề án tự chủ đại học để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, xây dựng quy định về phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo phân cấp quản lý, kèm theo cơ chế giám sát phù hợp, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện tiến tới thực hiện tự chủ đại học. Bên cạnh đó xây dựng cơ chế quản trị phù hợp với thực tiễn của Nhà trường, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động quản lý, điều hành, trong đó chú trọng xây dựng và phát triển các phân hệ phần mềm quản lý đào tạo, nhân sự, tiền lương…

Tiếp tục tăng cường chế độ đãi ngộ cho cán bộ, giảng viên, bảo đảm điều kiện cần thiết để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ. Đồng thời, hoàn thiện chỉ số đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc (KPIs) làm cơ sở để tăng thu nhập tăng thêm cho viên chức, người lao động. 

Ba là, về nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất.

Nhà trường đã đầu tư xây dựng khuôn viên, giảng đường, 100% các phòng học đều có điều hòa, máy chiếu, loa, mic, camera phục vụ công tác giảng dạy, bên cạnh đó còn trang bị thêm nhiều cơ sở vật chất phục vụ cho cán bộ giáo viên, người lao động để tạo động lực cho cán bộ, giảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời, xây dựng hệ thống thư viện số, đưa phần mềm thư viện điện tử Elib vào sử dụng quản lý nguồn học liệu đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giảng viên và sinh viên. 

Bốn là, tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Cần tiếp tục tập triển khai đề án, chương trình để cụ thể hóa các chủ trương, định hướng phát triển giáo dục và đào tạo, bảo đảm tính hiệu quả, khả thi để hoàn thành các mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ được giao. Trong quản lý đào tạo, cần phát triển và mở rộng quy mô đào tạo một cách hợp lý, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, phẩm chất, năng lực người học đáp ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao; đồng thời, chuẩn bị các điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất để mở thêm ngành mới, chuyên ngành đào tạo đại học và quy mô tuyển sinh. Xây dựng chương trình đào tạo chất lượng cao và hình thức đào tạo phù hợp với chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo. 

Tăng cường công tác kết nối, gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp, tập đoàn. Hoàn thiện quy trình tác nghiệp về tổ chức đào tạo theo chuẩn ISO, phối hợp giữa các đơn vị qua dịch vụ công trực tuyến và bộ phận một cửa, một cửa liên thông. Triển khai thực hiện Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030.

Phòng đào tạo, cần lập kế hoạch chi tiết, đẩy mạnh ứng dụng phương pháp tổ chức đào tạo E-learning kết hợp đào tao truyền thống. Xây dựng kế hoạch và tiến hành bổ sung tài liệu cho các học phần mới được điều chỉnh, ưu tiên các học phần được tổ chức đào tạo trong năm kế tiếp.

Liên kết với thư viện của các trường có các chương trình đào tạo giống chương trình đào tạo của Nhà trường để mở rộng nguồn lực thư viện, như: bài giảng điện tử, học liệu số đa phương tiện, sách giáo khoa điện tử, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác. Bên cạnh đó, trường cũng mở rộng liên kết, đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín với các đối tác chiến lược; đồng thời, quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo, chủ động hợp tác song phương, đa phương, tăng cường tìm kiếm, kết nối và khai thác các nguồn lực hợp tác quốc tế dựa trên mục tiêu hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, phát triển phẩm chất và năng lực người học.

Với đặc thù đào tạo về chuyên ngành công nghệ thông tin, Nhà trường cần đầu tư xây dựng, cải tạo, sửa chữa hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đặc biệt là phòng máy hiện đại với số lượng lớn máy cấu hình cao; bảo đảm hoạt động ổn định đáp ứng việc thực hành, thi trắc nghiệm, báo cáo thực tập của sinh viên trong và ngoài trường. Bên cạnh đó, cần phối hợp với Ban Quản lý Dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng nội dung yêu cầu cho các dự án: phần mềm quản lý, phần mềm LMS, LCMS, thi tiếng Anh…

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học.

Hoàn thiện quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên, nghiên cứu viên và những cán bộ hoạt động khoa học – công nghệ. Phát huy tính năng động, sáng tạo, khả năng nghiên cứu khoa học độc lập của sinh viên và hình thành năng lực tự học cho sinh viên. 

Cần kết nối với hợp tác quốc tế dựa trên mục tiêu hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, phát huy năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. 

Chú thích:
1, 4, 6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 376, 376, 378.
2, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 184, 184.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 167.
5, 8, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 54, 53, 56.
10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
11, 12, 13, 14. Trường Đại học Công nghệ và Truyền thông Thái Nguyên (2022). Báo cáo số 387/BC-ĐHCNTT&TT ngày 20/9/2022 về việc tổng kết công tác năm học 2021 – 2022, phương hướng, nhiệm vụ năm học 2022 – 2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Nguyễn Thị Thu Hà (2024). Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong phát triển đất nước. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 340, tháng 5/2024.
4. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/12/21/phat-huy-vai-tro-cua-doi-ngu-tri-thuc-trong-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-hien-nay/
5. Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. https://dangcongsan.vn/thoi-su/tiep-tuc-xay-dung-va-phat-huy-vai-tro-cua-doi-ngu-tri-thuc-654266.html.