TS. Vũ Lộc An
TS. Nghiêm Đình Đạt
TS. Vũ Thị Hoà
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội hướng tới xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thông minh là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Bài viết đánh giá thực trạng và định hướng giải pháp chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, góp phần hoàn thành mục tiêu chuyển đổi số ở Thủ đô Hà Nội và cả nước.
Từ khóa: Chuyển đổi số; đào tạo, bồi dưỡng; cán bộ; công chức; viên chức; thành phố Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số1. Các công nghệ, như: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud Computing), blockchain… đang tạo ra những thay đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực. Việc ứng dụng các công nghệ này vào hoạt động của cá nhân và tổ chức là chìa khóa để đạt được chuyển đổi số thành công.
Chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là quá trình ứng dụng các công nghệ số vào các hoạt động giảng dạy, học tập và quản trị cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn.
2. Tiêu chí đánh giá chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội
Trên cơ sở Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án “Xác định bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của quốc gia” tại Quyết định số 922/QĐ-BTTTT ngày 20/5/2022 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030” kèm theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ; các văn bản về chuyển đổi số của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó, thành phố Hà Nội đã đề ra các tiêu chí đánh giá chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với tình hình thực tế, bao gồm:
2.1. Nhóm tiêu chí bảo đảm chuyển đổi số
(1) Có ban hành kế hoạch, đề án, chiến lược chuyển đổi số.
(2) Có ban hành, thực hiện quy chế đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến.
(3) Ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến.
(4) Ban hành quy chế quản lý, vận hành, sử dụng hạ tầng số và các hệ thống thông tin.
(5) Thành lập bộ phận chỉ đạo, phụ trách, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.
(6) Có ban hành kế hoạch phát triển năng lực số phù hợp cho từng đối tượng, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số toàn diện.
(7) Có kế hoạch kiểm tra, giám sát chuyển đổi số.
2.2. Nhóm tiêu chí tổ chức chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
(1) Có triển khai hệ thống quản lý học tập trực tuyến (LMS), hệ thống quản lý nội dung học tập trực tuyến (LCMS).
(2) Có xây dựng, phát triển học liệu số đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng.
(3) Có thư viện điện tử hoặc thư viện số phục vụ giảng viên và học viên.
(4) Có triển khai đào tạo trực tuyến, kết hợp trực tiếp và trực tuyến.
(5) Có triển khai công tác khảo thí trên máy tính với phần mềm chuyên dụng, kết nối mạng LAN và hệ thống thông tin quản lý đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
2.3. Nhóm tiêu chí tổ chức chuyển đổi số hoạt động quản trị cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
(1) Có hệ thống thông tin quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
(2) Có hệ thống thông tin quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học.
(3) Có hệ thống thông tin quản lý hoạt động hành chính phục vụ quản lý, điều hành cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(4) Có hệ thống thông tin quản lý các dịch vụ, hoạt động hỗ trợ trực truyến của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(5) Có hệ thống thông tin quản trị nhân sự của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(6) Có hệ thống thông tin quản trị tài chính của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(7) Có hệ thống thông tin quản trị cơ sở vật chất, trang thiết bị của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
2.4. Nhóm tiêu chí về hạ tầng và công nghệ số
(1) Có studio phục vụ sản xuất học liệu (bao gồm phòng chuyên biệt được lắp đặt các phần mềm và thiết bị công nghệ thông tin dùng cho việc xây dựng, biên tập và xuất bản học liệu điện tử).
(2) Có hệ thống Internet miễn phí trong khuôn viên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(3) Có trang thiết bị kỹ thuật số đồng bộ, hiện đại.
(4) Có xây dựng, phát triển dữ liệu số đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng và quản trị cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(5) Có Cổng thông tin điện tử kịp thời cung cấp thông tin về hoạt động và tích hợp các hệ thống thông tin của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
(6) Có triển khai hệ thống công nghệ thông tin có khả năng kết nối, tích hợp, chia sẻ, liên thông và dùng chung dữ liệu giữa các hệ thống thông tin trong cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và giữa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với cơ quan có liên quan theo quy định.
(7) Có triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ.
(8) Có ứng dụng công nghệ số hiện đại và có khả năng nâng cấp, cập nhật khi cần thiết.
3. Thực trạng chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội
Nghiên cứu kết hợp sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu các giảng viên, học viên, chủ thể quản lý, chuyên gia giáo dục, chuyên gia công nghệ thông tin và các chủ thể khác. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp quan sát, khảo sát thực địa nhằm thu thập các tài liệu định tính để có thông tin hỗ trợ việc phân tích thực trạng, tăng tính khách quan của kết quả nghiên cứu. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS. Địa bàn nghiên cứu, gồm: Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội, các trung tâm chính trị thuộc thành phố Hà Nội, Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục Hà Nội… Từ đó, đánh giá thực trạng chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội trên các nhóm tiêu chí sau:
3.1. Nhóm tiêu chí bảo đảm chuyển đổi số
Thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động để lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Các văn bản này đã thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố trong việc đẩy mạnh chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Thành phố đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng và triển khai kế hoạch chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành, đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của thành phố Hà Nội, như: Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội, các trung tâm chính trị quận, huyện, thị xã… đã chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
Các cơ quan chuyên môn của UBND thành phố, chủ trì là Sở Thông tin và Truyền thông thực hiện khá tốt nhiệm vụ thẩm định đề cương, đề án, dự án chuyển đổi số của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chủ động thành lập Ban Chỉ đạo, tổ giúp việc để chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc chuyển đổi số; huy động sự giám sát của Ban Thanh tra nhân dân cơ quan, các tổ chức và cá nhân trong đơn vị. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tiến độ và hiệu quả thực hiện kế hoạch, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung chưa phù hợp.
Ngoài ra, thành phố còn tổ chức các hội nghị, tập huấn để phổ biến, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thực hiện chuyển đổi số, nâng cao nhận thức cho các chủ thể kiểm tra, giám sát về chuyển đổi số. Bên cạnh đó, thường xuyên ghi nhận phản ánh, lấy ý kiến phản hồi từ các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý, giảng viên và người học về chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ công chức, viên chức còn hạn chế về nhận thức, chưa thấy rõ được vai trò, ý nghĩa của chuyển đổi số; cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về chuyển đổi số còn chưa đồng bộ, chưa tạo động lực đủ mạnh để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số; sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số còn chưa chặt chẽ, còn tình trạng cục bộ, gây khó khăn cho việc triển khai đồng bộ các giải pháp chuyển đổi số.
Cơ chế kiểm tra, giám sát chuyển đổi số chưa mang tính hệ thống, chưa đồng bộ, nhất là chưa có hệ tiêu chí đánh giá, gây khó khăn cho việc kiểm tra, giám sát; việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát chưa thành nề nếp, chưa huy động được các chủ thể có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; công tác thẩm định dự án, đề án chuyển đổi số còn chậm so với yêu cầu do số lượng các dự án, đề án gửi cơ quan chuyên môn, chuyên ngành thẩm định trong cùng một thời điểm rất lớn, tính chất, mức độ chuyển đổi số ở các cơ quan, đơn vị có nhiều điểm khác nhau và do tính mới của chuyển đổi số.
3.2. Nhóm tiêu chí tổ chức chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
Hiện chưa có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nào ở thành phố Hà Nội xây dựng được hệ thống quản lý học tập trực tuyến (LMS), hệ thống quản lý nội dung học tập trực tuyến (LCMS), thư viện điện tử hoặc thư viện số, học liệu số… Các cơ sở chủ yếu tận dụng các nền tảng, phần mềm, ứng dụng có sẵn vào công tác quản lý học tập. Riêng Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội đang lập dự án xây dựng hệ thống LMS với nhiều tính năng, như: quản lý công cụ học online, quản lý lớp học, quản lý trang cá nhân, quản lý lịch giảng dạy, điểm danh, biên soạn nội dung bài giảng, biên soạn bài tập, thư viện câu hỏi, giao bài tập và chấm điểm, quản lý trao đổi, thảo luận…; xây dựng hệ thống thông tin quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và hệ thống thông tin quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học với nhiều chức năng, bao quát gần như toàn diện các hoạt động nghiệp vụ cốt lõi; số hóa một số sách của thư viện, sắp xếp chỉ mục trên phần mềm quản lý thư viện của Trường.
Tình hình xây dựng và phát triển học liệu số ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của thành phố chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số. Chất lượng và số lượng học liệu còn tản mát, manh mún, chưa hệ thống và đồng bộ nên chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người học.
Rõ nét nhất là trong giai đoạn đại dịch Covid-19, các cơ sở đào tạo đã chuyển sang hình thức học trực tuyến, chủ yếu qua các phần mềm, như: Microsoft Teams, Zoom, Google Meet khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Chỉ có Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội thường xuyên tổ chức thi hết học phần cho các lớp trung cấp lý luận chính trị bằng hình thức khảo thí trên máy tính nhưng vẫn phải thuê máy tính và phần mềm.
3.3. Nhóm tiêu chí tổ chức chuyển đổi số hoạt động quản trị cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
Tất cả cơ sở đều đã sử dụng một số hệ thống thông tin dùng chung của thành phố, như: hệ thống quản lý văn bản và điều hành, hệ thống đánh giá cán bộ, công chức, viên chức. Việc sử dụng hệ thống dùng chung giúp tiết kiệm chi phí đầu tư, khai thác và bảo trì hệ thống, đồng thời tạo sự thống nhất trong quản lý và điều hành giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, các cơ sở đã biết tận dụng các nền tảng, phần mềm, ứng dụng có sẵn, như: Microsoft Word, Microsoft Excel, Google Forms, Zalo, Facebook, Google Drive… vào công tác quản trị.
Một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đã và đang xây dựng các hệ thống thông tin quản lý chuyên biệt, như: hệ thống thông tin quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, hệ thống thông tin quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, hệ thống thông tin quản trị nhân sự, hệ thống thông tin quản trị tài chính, hệ thống thông tin quản trị cơ sở vật chất, trang thiết bị. Việc xây dựng các hệ thống thông tin chuyên biệt này cho thấy sự chủ động và quyết tâm của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản trị.
Tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nào có hệ thống thông tin quản lý tổng thể, đồng bộ, tích hợp tất cả các hoạt động quản trị. Các hệ thống thông tin hiện có mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu quản lý, chưa được kết nối, chia sẻ dữ liệu một cách hiệu quả.
Việc đầu tư xây dựng và triển khai các hệ thống thông tin quản lý chuyên biệt đòi hỏi nguồn lực lớn về tài chính, công nghệ và nhân lực. Trong khi đó, một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng còn gặp khó khăn về nguồn lực, đặc biệt là các trung tâm chính trị quận, huyện, thị xã.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế về trình độ công nghệ thông tin, chưa quen với việc sử dụng các hệ thống thông tin phức tạp.
3.4. Nhóm tiêu chí về hạ tầng và công nghệ số
Việc xây dựng, phát triển hạ tầng số ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội đã và đang được quan tâm triển khai thực hiện nhưng cần phải được cải thiện so với yêu cầu đề ra.
Các cơ sở đào tạo đều được trang bị internet cáp quang, wifi tốc độ cao và ổn định, đáp ứng nhu cầu kết nối cơ bản, nhưng cần phải tính đến ứng dụng các công nghệ mạng tiên tiến như SD-WAN, Wi-Fi 6 để tối ưu hóa hiệu suất và nâng cao trải nghiệm người dùng; có đánh giá chi tiết hơn về tốc độ, băng thông, độ ổn định và khả năng đáp ứng của mạng lưới, đặc biệt trong các thời điểm cao điểm.
Trung tâm dữ liệu đã đáp ứng một phần nhưng cần xem xét việc ứng dụng các công nghệ mới, như: ảo hóa, điện toán đám mây (Cloud Computing) và AI để nâng cao hiệu quả và khả năng mở rộng. Nhiều cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chưa được trang bị trung tâm dữ liệu riêng, có thể ảnh hưởng đến khả năng lưu trữ và quản lý dữ liệu nội bộ.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật phòng họp, phòng học trực tuyến mới đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu. Các cơ sở đào tạo được trang bị máy chiếu, một số có màn hình LED. Tuy nhiên, cần nâng cấp hệ thống âm thanh, hình ảnh, tính ổn định và khả năng tương tác của hệ thống họp trực tuyến; cần xem xét việc ứng dụng các công nghệ mới như thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và AI để nâng cao trải nghiệm học tập và giảng dạy trực tuyến.
Về hệ thống điện toán đám mây (Cloud Computing), hạ tầng mạng kết nối IoT, hiện tất cả cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chưa sử dụng một cách hệ thống, đồng bộ. Cần xem xét việc ứng dụng điện toán đám mây để tăng tính linh hoạt, khả năng mở rộng và tiết kiệm chi phí trong việc cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin; xem xét việc ứng dụng IoT để quản lý tài sản, giám sát môi trường, nâng cao an ninh và an toàn, cũng như tối ưu hóa năng lượng; đánh giá các yếu tố như số lượng và loại thiết bị kết nối, khả năng thu thập và xử lý dữ liệu, tính bảo mật và khả năng tích hợp để triển khai hạ tầng mạng IoT hiệu quả.
Về cơ sở hạ tầng bảo mật đã đáp ứng cơ bản, nhất là ở Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, cần có nhiều biện pháp bảo mật khác như hệ thống phát hiện và ngăn chặn tấn công, hệ thống quản lý danh tính và truy cập, mã hóa dữ liệu; tăng cường đào tạo nhận thức bảo mật cho cán bộ, công chức, viên chức để nâng cao khả năng phòng tránh các rủi ro bảo mật.
Về thiết bị công nghệ thông tin cũng đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản về số lượng của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, cần quan tâm nâng cấp bảo đảm đồng bộ, hiện đại, nhất là máy chiếu, màn hình tương tác, camera, microphone, tai nghe… để hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng; cần cập nhật và sử dụng các phần mềm ứng dụng và hệ điều hành mới nhất để bảo đảm tính tương thích và bảo mật.
4. Giải pháp chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, diễn đàn để các chuyên gia, nhà quản lý và cán bộ, công chức, viên chức trao đổi về lợi ích, thách thức và kinh nghiệm thực tiễn về chuyển đổi số. Xây dựng các chương trình đào tạo về chuyển đổi số dành riêng cho cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Chương trình nên bao gồm kiến thức về công nghệ số, kỹ năng lãnh đạo chuyển đổi số và cách ứng dụng công nghệ vào công việc.
Đa dạng hóa các kênh tuyên truyền, truyền thông, như: thông qua cổng thông tin điện tử, mạng xã hội, bản tin nội bộ để phổ biến thông tin, chia sẻ câu chuyện thành công và tạo động lực cho quá trình chuyển đổi số.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về chuyển đổi số. Rà soát và cập nhật các quy định pháp luật hiện hành để bảo đảm tính đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi số. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị liên quan để giải quyết các vướng mắc, điểm nghẽn trong quá trình triển khai chuyển đổi số.
Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số. Thành lập, phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số ở các cơ quan và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với thành phần hợp lý để thống nhất chỉ đạo, điều phối các hoạt động chuyển đổi số.
Xây dựng hệ thống tiêu chí, quy trình, thủ tục đánh giá cụ thể, rõ ràng gắn với cải cách thủ tục hành chính để thẩm định, đo lường tiến độ và hiệu quả của các hoạt động chuyển đổi số. Thực hiện kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, tồn tại.
Định kỳ giao ban giữa các cơ quan, đơn vị để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và giải quyết các vấn đề phát sinh. Thiết lập hệ thống chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, đơn vị để bảo đảm tính minh bạch và kịp thời trong quá trình triển khai chuyển đổi số.
Bốn là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho chuyển đổi số. Đa dạng hóa nguồn vốn khác nhau cho chuyển đổi số. Bảo đảm phân bổ ngân sách hợp lý, ưu tiên cho các dự án chuyển đổi số trọng điểm, có tính lan tỏa cao ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lớn. Đẩy mạnh cơ chế xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp tài chính, công nghệ, nhân lực cho các hoạt động chuyển đổi số thông qua các hình thức, như: tài trợ, hợp tác đầu tư, xây dựng quỹ phát triển…
Bên cạnh đó, có biện pháp tối ưu hóa nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, đầu tư vào đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng công nghệ số cho cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là bảo đảm số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác chuyển đổi số. Có cơ chế đủ hấp dẫn để thu hút các chuyên gia, kỹ sư công nghệ thông tin giỏi về làm việc trong lĩnh vực chuyển đổi số. Đồng thời, tạo động lực, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức đề xuất các ý tưởng, sáng kiến mới trong chuyển đổi số.
Hơn nữa, xây dựng kế hoạch phân bổ và sử dụng nguồn lực chi tiết, rõ ràng với lộ trình phù hợp. Ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực, dự án chuyển đổi số giải quyết những vấn đề cốt lõi, cấp bách trong cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, mang lại hiệu quả cao, có tính ứng dụng rộng rãi. Thực hiện quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện dự án, kiểm soát chi phí, tiến độ, chất lượng công việc theo quy định để không bị động hoặc vi phạm.
Năm là, tăng cường đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và trang thiết bị kỹ thuật số. Xây dựng dự án đầu tư, nâng cấp hạ tầng mạng lưới, trung tâm dữ liệu, hệ thống máy chủ, thiết bị đầu cuối để đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số theo lộ trình phù hợp. Trong đó, chú ý kết nối với các hệ thống dùng chung sẵn có và cân nhắc việc thuê hạ tầng, nền tảng bên ngoài để bảo đảm hiệu quả bền vững. Trang bị các thiết bị kỹ thuật số, như: máy tính, máy chiếu, màn hình tương tác… cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm số lượng, chất lượng đồng bộ, tương thích.
5. Kết luận
Chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở thành phố Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số vẫn còn một số hạn chế. Để hướng tới xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thông minh ở thành phố Hà Nội cần phải đẩy mạnh công tác chuyển đổi số, trong đó cần thực hiện tốt một số giải pháp giải pháp, như: tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số; hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về chuyển đổi số; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chuyển đổi số; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho chuyển đổi số; tăng cường đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và trang thiết bị kỹ thuật số… từ đó, góp phần xây dựng bộ máy hành chính nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Chú thích:
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Cẩm nang chuyển đổi số. Tái bản có chỉnh sửa, cập nhật, bổ sung năm 2021. H. NXB Thông tin và Truyền thông, tr. 21.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2023). Thông tư số 06/2023/TT-BNV ngày 04/5/2023 ban hành Quy chế cập nhật, sử dụng, khai thác dữ liệu, thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước.
3. Chính phủ (2020). Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
4. Thành ủy Hà Nội (2022). Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 30/12/2022 về chuyển đổi số, xây dựng thành phố Hà Nội thông minh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 về phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030”.
6. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 phê duyệt Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030.
7. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
8. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2023). Kế hoạch số 239/KH-UBND ngày 27/9/2023 về chuyển đổi số, xây dựng thành phố Hà Nội thông minh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.