PGS.TS. Nguyễn Đình Bắc
ThS. Lã Trọng Đại
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Quán triệt tinh thần đó, bài viết góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Phát triển lý luận; tổng kết thực tiễn; chủ nghĩa xã hội; Nguyễn Phú Trọng.
1. Đặt vấn đề
Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận là một nhiệm vụ, yêu cầu thường xuyên và thiết yếu đối với Đảng ta trong quá trình xây dựng, hoàn thiện đường lối lãnh đạo cách mạng, nhất là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là yêu cầu xuất phát từ cả hai phương diện: lý luận và thực tiễn. Về phương diện lý luận, một điều dễ nhận thấy là trong quá trình phát triển học thuyết của mình, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã dành phần chủ đạo cho việc luận giải tính tất yếu của quá trình chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức để hiện thực hóa sự chuyển biến đó. Còn lý luận về mô hình xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, với sự cẩn trọng đầy tính khoa học, Mác – Lênin đã chỉ ra rằng: “Những hệ thống xã hội mới ấy… càng được đề xuất một cách chi tiết bao nhiêu thì nó càng phải rơi vào lĩnh vực ảo tưởng thuần túy bấy nhiêu”1, tức là, các ông mới chỉ đưa ra những phác thảo căn bản mang tính dự báo. Không những thế, khi phác thảo những biện pháp để xây dựng xã hội mới, các ông cũng không quên nhắc nhở: “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”2.
Trên thực tế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thường xuyên coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là một quá trình mang tính đấu tranh và chọn lọc. Song nhờ luôn bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, Đảng đã kịp thời rút ra những bài học quý báu, từ đó không ngừng phát triển, hoàn thiện lý luận. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản…”3.
Điều đó có nghĩa, nếu không thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì chắc chắn không thể có lý luận đổi mới, không thể có đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng đắn và không thể có thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá”4 và “Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển”5. Trong đó, những vấn đề lớn về lý luận đã từng bước được làm sáng tỏ và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn, như lý luận về mục tiêu, đặc trưng, phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra nhưng chưa được tổng kết, khái quát lý luận kịp thời. Tại Đại hội XIII, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ”6.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhân dân ta đang diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, đưa đến đồng thời cả những cơ hội và thách thức lớn. Trên thế giới, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, mở ra cơ hội cho những nước như Việt Nam hiện thực hóa khả năng “đi tắt đón đầu” thông qua con đường nắm bắt và phát triển công nghệ, đồng thời đưa tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và trình độ phát triển nếu không có sự chuyển mình kịp thời. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục có sự phát triển năng động, song cũng nảy sinh nhiều nguy cơ bất đồng, xung đột do sự can thiệp, chi phối của các nước lớn. Ở trong nước, qua hơn 37 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức: kinh tế vĩ mô chưa ổn định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, phân hóa giàu – nghèo ngày càng lớn đe dọa đến sự thống nhất chính trị tư tưởng của nhân dân; tình trạng tham nhũng, lãng phí còn diễn biến phức tạp; niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có biểu hiện suy giảm,… Tất cả những yếu tố đó đang đòi hỏi gay gắt Đảng ta phải đề ra được đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, đưa đất nước vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, biến cơ hội nhỏ thành vận hội lớn nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, hơn lúc nào hết, công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng, nhất là về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng phải được đặc biệt coi trọng và tăng cường. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”7. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh: “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”8.
2. Một số giải pháp cơ bản góp phần tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Một là, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng đối với công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
Chủ thể tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, trọng yếu là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là cấp ủy đảng các cấp, tùy theo tính chất, nhiệm vụ của từng cấp mà đặt ra những yêu cầu riêng. Đối với cấp cơ sở, hoạt động tổng kết thực tiễn trước hết là để đúc rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ cho quá trình nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị mình; bên cạnh đó còn trực tiếp tham mưu, tư vấn, góp ý cho các cơ quan cấp trung ương trong việc nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận, xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách. Do đó, cần tránh biểu hiện nhận thức sai lầm cho rằng, cấp cơ sở chỉ là cấp thực thi, không có vai trò trong tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, từ đó dẫn đến thiếu tinh thần trách nhiệm. Đối với cấp trung ương, hoạt động tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận là để xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, do đó, cần xác định rõ đây là nhiệm vụ trọng yếu. Tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận là trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó các cơ quan tham mưu chiến lược đóng vai trò chuyên trách nòng cốt là Hội đồng Lý luận Trung ương, các ban đảng (Tổ chức, Tuyên giáo, Kinh tế, Dân vận, Kiểm tra, Nội chính), cơ quan nghiên cứu lý luận và chính trị của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam…). Nhận thức, trách nhiệm của cấp này thể hiện ở việc phải luôn tự đặt ra yêu cầu cao đối với công tác lý luận; gắn những hạn chế, thiếu sót của công tác lý luận với trách nhiệm cụ thể của từng tổ chức, lực lượng.
Trước những thách thức, yêu cầu gay gắt mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra đối với công tác lý luận hiện nay, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”9, đồng thời “phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển; khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí, quyết tâm vươn lên của cả dân tộc; phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra”10.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chất lượng, hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc vào hệ thống các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có vai trò quyết định nhất. Tuy nhiên, đây lại đang là một khâu yếu. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” chỉ ra: đội ngũ cán bộ lý luận đông nhưng không mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực. Đến nay, tình hình này đã từng bước được cải thiện, song còn có một khoảng cách xa so với yêu cầu. Trong những năm tới, cần tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ của Hội đồng Lý luận Trung ương; phát huy vai trò của các cơ quan, trung tâm nghiên cứu, các học viện, nhà trường,… trong xây dựng và thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là năng lực phân tích, dự báo, tham mưu, đề xuất những vấn đề mới, khả năng khái quát thực tiễn thành lý luận.
Vì vậy, cần từng bước xây dựng nguồn nhân lực nghiên cứu lý luận chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu ngành giỏi và các lớp cán bộ kế tiếp với số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành, lĩnh vực phù hợp. Cùng với đó, cần xây dựng, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút nhân tài vào làm công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận đồng thời có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ chuyên gia nòng cốt, đầu ngành để họ yên tâm công tác, trau dồi nghề nghiệp, dành tâm huyết cho công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, phát huy dân chủ, khuyến khích sáng tạo, đột phá trong công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
Dân chủ là động lực của lý luận khoa học, là “cái nôi” nuôi dưỡng sự sáng tạo, đột phá của các nhà khoa học chân chính; không có dân chủ sẽ không có sáng tạo, khó có đột phá, không thể có cái mới trong nghiên cứu lý luận. Vì vậy, khoa học lý luận sẽ cằn cỗi, xơ cứng, thiếu sức sống, không đủ sức đảm nhiệm vai trò dẫn đường cho hoạt động thực tiễn. Ngày 25/4/2015, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Quy định số 285-QĐ/TW về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước, trong đó khẳng định: dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng, kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành.
Tuy nhiên trên thực tế, trong công tác nghiên cứu lý luận vẫn còn biểu hiện một số lãnh đạo, người chủ trì chưa phát huy hết dân chủ, còn nặng định kiến, dễ quy chụp quan điểm. Một số cán bộ có nhận thức cho rằng, thà mang tiếng bảo thủ còn hơn bị cho là xét lại, là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cho nên để “an toàn” thì tốt nhất là né tránh cái mới, hoạt động nghiên cứu nghiêng về thuyết minh, minh chứng cho những luận điểm chính trị có sẵn, ít phê phán, tìm tòi, đổi mới, khám phá. Một số khác lại có biểu hiện lợi dụng quyền dân chủ để phát ngôn tự do, tùy tiện, thiếu cân nhắc lập trường chính trị. Thực chất, đây đều là những biểu hiện nhận thức lệch lạc về dân chủ, đồng thời là sự yếu kém về bản lĩnh trong nghiên cứu khoa học và đều dẫn tới những tác hại cho hoạt động nghiên cứu lý luận.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm tới, cần tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ trong nghiên cứu khoa học (cụ thể nghiên cứu lý luận). Khuyến khích tinh thần tự chủ, sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng đương đầu với việc khó, vấn đề phức tạp. Có cơ chế tiếp nhận, xử lý một cách hiệu quả những phát hiện mới, táo bạo song chưa được kiểm chứng đầy đủ, không tùy tiện quy chụp lập trường, quan điểm.
Mặt khác, phải thường xuyên cảnh giác, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận, không để xảy ra tình trạng lợi dụng dân chủ để đưa những quan điểm sai lầm, lệch lạc vào hệ thống lý luận. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo: “Hết sức tránh tư tưởng bảo thủ, cục bộ, võ đoán, quy chụp và cách làm khép kín. Phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận vì lợi ích của đất nước, dân tộc; đồng thời, chủ động, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các luận điểm phản động, thù địch, xuyên tạc; bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước”11.
Bốn là, tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức, lực lượng trong công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
Thực tiễn cho thấy, sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận mang lại nhiều giá trị lớn và thiết thực. Thông qua quá trình phối hợp, hợp tác, các cơ quan, đơn vị làm công tác lý luận sẽ có cơ hội hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo điều kiện để phát huy lợi thế, khắc phục những bất cập. Đây cũng là phương thức giúp cho các nhà khoa học có điều kiện giao lưu, chia sẻ, hợp tác với nhau; có cơ hội quảng bá và tiếp nhận góp ý, phản biện cho những thành tựu nghiên cứu mới nhất của bản thân và của cơ quan, đơn vị mình, qua đó vừa hoàn thiện lý luận, vừa nâng cao năng lực, trình độ của nhà nghiên cứu. Không những tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu trong nước, Đảng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc giao lưu, chia sẻ, hợp tác trong nghiên cứu lý luận với chính đảng của các nước trên thế giới, “Từng bước đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng ta với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu quả”12.
Năm là, tích cực đổi mới hình thức, phương pháp tiến hành tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
Trong công tác tổng kết thực tiễn, cần đa dạng hóa các hình thức, phương pháp, sử dụng có hiệu quả cả hình thức trực tiếp và gián tiếp. Bên cạnh việc tiếp tục phát huy hiệu quả của phương pháp tổng kết thực tiễn gián tiếp thông qua các ban chỉ đạo và tổ chức theo hệ thống dọc, cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng cơ chế, quy định để cán bộ lãnh đạo trực tiếp thị sát, nắm bắt tình hình cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ có phong cách lãnh đạo gần dân, tin dân, hiểu dân, hình thành thói quen quan sát, điều tra, xem xét các tình huống trong thực tiễn, tránh bệnh quan liêu, hình thức. Cùng với đó, phải gắn liền tổng kết thực tiễn với phát triển lý luận; đẩy mạnh hơn nữa việc thí điểm lý luận theo mô hình. Những vấn đề mới, chưa có cơ sở khoa học để kiểm chứng, phổ biến rộng rãi cần được thực hiện thí điểm, từ đó tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, từng bước hình thành lý luận. Xây dựng cơ chế dẫn nhập các thành tựu nghiên cứu khoa học của cấp cơ sở, các đơn vị nghiên cứu vào nghị trình chính sách của Trung ương.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (2002). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 359.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (2002). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 627.
3. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 23 – 24.
4, 5, 6, 7, 8, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H.NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 25, 74, 90 – 91, 182.
9, 10, 11. Nguyễn Phú Trọng (2018). Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua. H.NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 287, 277 – 278, 281.