Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

TS. Võ Anh Tuấn
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Tham nhũng được xem là mối đe dọa lớn đối với mọi xã hội và mọi nền kinh tế, đã và đang “ăn mòn” mọi nguyên tắc pháp quyền, dân chủ và các giá trị nền tảng đạo đức, văn hóa, quyền con người… trở thành “căn bệnh” khó trị của mọi xã hội có nhà nước. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng được xem là điều kiện “tiên quyết” để đi đến nắm giữ, củng cố, xây dựng và duy trì sự phát triển của Nhà nước. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm của V.I.Lênin về những nội dung tham nhũng và phòng, chống tham nhũng, từ đó đưa ra những nội dung tham chiếu phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: Quan điểm của V.I.Lênin; tham nhũng; phòng, chống tham nhũng. 

1. Đặt vấn đề

V.I.Lênin đã đặt ra “Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết”1, phân tích những vấn đề quan trọng nhất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội; những căn cứ lý luận của đường lối chính sách kinh tế của Nhà nước chuyên chính vô sản, ý nghĩa và nội dung của nhiệm vụ tổ chức và quản lý chế độ xã hội mới; việc tiếp tục đấu tranh tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa tư bản và giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo, xây dựng và phát triển đất nước, V.I.Lênin đã đề cập đến một “cặn bệnh” cố hữu đó là nạn tham ô, tham nhũng, hối lộ nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của một đất nước. Với cách nhận diện, đánh giá và đưa ra những giải pháp thực hiện phòng, chống tham nhũng của V.I.Lênin đã có tác động, ảnh hưởng đến chiến lược phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 

2.  Quan điểm của V.I.Lênin về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng

Quan điểm của V.I.Lênin về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng là một hệ thống bao gồm nhiều luận điểm, quan điểm khác nhau đề cập đến những vấn đề lý luận căn bản, cốt yếu, đồng thời cũng bao hàm cả những giải pháp, biện pháp cụ thể trong chỉ đạo thực tiễn. Quan điểm đó được đúc kết từ trong quá trình lãnh đạo, xây dựng và phát triển chính quyền Xô viết. 

Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự trong sạch, lớn mạnh của Đảng vô sản được nêu trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm (1848), V.I.Lênin đưa ra một học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Cùng với thực tiễn của chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã đưa ra những quan điểm về tham nhũng như một hiện tượng xã hội phổ biến và nó xuất hiện cùng với quá trình hình thành quyền lực công. Khái niệm tham nhũng được V.I.Lênin cắt nghĩa thông qua hai biểu hiện “ăn mòn” xã hội đó là tệ nạn “quan liêu” và “hối lộ” trở nên phổ biến. 

V.I.Lênin khẳng định: “hiện giờ có ba kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào… kẻ thù thứ nhất – tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai – nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba – nạn hối lộ”2. Như vậy, một trong ba kẻ thù lớn của nước Nga trong quá trình xây dựng chính quyền chính là “hối lộ”; đây là một biểu hiện suy thoái về mặt đạo đức của người đưa và nhận hối lộ, thể hiện sự “bất lực” và “lỗ hỏng” về mặt quản lý và thực hiện các chính sách. Đi kèm với biểu hiện này chính là chất lượng của quá trình xây dựng và phát triển đất nước sẽ không được bảo đảm, gây ra những hạn chế cho sự tồn tại và phát triển của con người trong xã hội. “Hối lộ” trở nên phổ biến, trở thành một hiện tượng tiêu cực phức tạp, phản giá trị xã hội và gắn với những mâu thuẫn xã hội.

Đồng hành với hối lộ chính là tệ nạn “quan liêu”, đây là một biểu hiện của xã hội cũ và được tồn tại trong một hình thái kinh tế xã hội mới, điều này đã kìm hãm sự phát triển của nước Nga trong giai đoạn mới. Tệ nạn này xuất hiện trong đội ngũ quản lý có một vị đặc quyền so với nhân dân, “nghĩa là thành những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần chúng và đứng trên quần chúng”3. Đó chính là “chủ nghĩa địa vị”, tức là quyền lực bị tha hóa; “tức là đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm xỉa đến công tác; tức là tranh giành nhau để được bổ tuyển”4. Và “Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó (tệ quan liêu, tham nhũng)”5

Như vậy, với quan điểm của V.I.Lênin thì hối lộ, quan liêu và tham nhũng là những “tệ nạn” đã và đang tác động làm ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, biểu hiện chính là một bộ máy lãnh đạo xa rời quyền và lợi ích của quần chúng nhân dân. Điều này làm mất dần sự tin tưởng, niềm tin và sức mạnh đoàn kết toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Bởi vì, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để tư lợi cá nhân, đặt quyền và lợi ích cá nhân trên lợi ích tập thể và quần chúng nhân dân. 

Tham nhũng dưới đánh giá của V.I.Lênin đã trở nên “nguy hại” đến sự tồn vong của một quốc gia, làm “xói mòn” nhiều chuẩn mực giá trị đạo đức và giá trị con người. Tham nhũng đã và đang trở thành một biểu hiện của sự “tha hóa” con người trong xã hội và sự “tha hóa” đó xuất phát từ sự tha hóa quyền lực do hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại với sở hữu tư nhân, nhu cầu tư lợi cá nhân. Về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định: “Trong các tổ chức chính trị và công đoàn của chúng ta, viên chức bị hủ hóa (hay nói đúng hơn là có xu hướng bị hủ hóa) bởi hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa; họ có xu hướng biến thành những người quan liêu, nghĩa là thành những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần chúng và đứng trên quần chúng”6. Như vậy, chính hoàn cảnh thực tại của tư bản chủ nghĩa cùng với những kẽ hở của các thể chế quản lý trong Đảng và Nhà nước đã biến tham nhũng trở thành “vấn nạn” tồn tại trong cơ quan, đơn vị nhà nước, gây ảnh hưởng trực tiếp đến tha hóa của các tổ chức chính trị – xã hội; sự tồn vong của đất nước. Đó là nhận thức của V.I.Lênin trước thực trạng của chính quyền Xô viết, đó cũng chính là tư duy của một nhà lãnh đạo vì sự tồn vong của đất nước. 

Từ thực tế đó, V.I.Lênin cũng chỉ rõ những giải pháp để phòng, chống tham nhũng và khẳng định: “cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đòi hỏi hàng chục năm. Đây là cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn” 7 và “Không thể nào chỉ dùng pháp luật mà hoàn thành nhanh chóng được, nó đòi hỏi một công tác lớn lao và lâu dài” 8. Với mục đích: “mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng” 9. Vì vậy , theo V.I.Lênin việc đầu tiên cần thiết lập “một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt” 10 và thực hiện kỷ luật đảng viên nghiêm khắc trong điều kiện Đảng cầm quyền. V.I.Lênin khẳng định: “Kẻ nào làm yếu – dù chỉ là chút ít – kỷ luật sắt trong Đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong thời kỳ chuyên chính của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản” 11. Để thực hiện được những giải pháp đó, theo V.I.Lênin phải phát huy thực hành dân chủ rộng rãi, cuốn hút, lôi cuốn được nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước; “đấu tranh chống cái vũng lầy chủ nghĩa quan liêu và bệnh giấy tờ  bằng cách kiểm tra người và kiểm tra công việc thực tế, tống cổ một cách không thương xót những công chức thừa, giảm biên chế, thay đổi những đảng viên cộng sản không nghiêm túc học tập việc quản lý” 12; đồng thời, “lựa chọn người; thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với việc đang làm; kiểm tra công việc thực tế” 13.

3. Công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam 

Vận dụng những quan điểm của V.I.Lênin về tham nhũng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng ta chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng đang làm xói mòn lòng tin của Nhân dân với Đảng và chế độ. Vì vậy, tại Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998, thuật ngữ “tham nhũng” đã được định nghĩa với những dấu hiệu cụ thể: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.” 14. Đến Pháp lệnh số 22/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Chống tham nhũng với 7 loại hành vi, như: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm doạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự cũng đưa ra những điều khoản cụ thể quy định việc xử lý hình sự đối với các hành vi tham nhũng. 

Ngày 29/11/2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng. Đây được xem là một sự cụ thể hóa đúng đắn về quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trước “vấn nạn” lớn đã và đang tồn tại trong quá trình phát triển của đất nước. Những nội dung này tiếp tục bổ sung, phát triển trong Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi, bổ sung 2007, 2012), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và mở rộng chủ thể của tham nhũng sang khu vực ngoài nhà nước. 

Với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong quá trình đấu tranh phòng, chống tham nhũng có thể nhận thấy, Đảng ta luôn nhấn mạnh nguyên tắc đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân; đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Đảng; chống quan liêu, lãng phí. Trong tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng được coi trọng và nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn” 15. Như vậy, có thể nhận thấy, trong giai đoạn hiện nay, phòng, chống tham những là một trong những vấn đề trọng tâm, có ý nghĩa nghĩa chiến lược quan trọng, trở thành vấn đề trọng yếu trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Trong những năm qua, tham nhũng, lãng phí ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt coi trọng công tác thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng, xác định là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, yêu cầu phải tiến hành kiên trì, kiên quyết, có trọng tâm, trọng điểm nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Theo đó, ngày 02/6/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 67-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng.

Từ đầu năm 2024 đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 2.100 vụ với 4.211 bị can, truy tố 2.030 vụ với 4.042 bị can, xét xử sơ thẩm 1.686 vụ với 3.198 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ; trong đó, đã khởi tố mới 285 vụ án, 646 bị can về tội tham nhũng. Riêng các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã khởi tố mới 2 vụ án với 8 bị can, khởi tố thêm 135 bị can trong 7 vụ án; kết luận điều tra 3 vụ án với 318 bị can; kết luận điều tra bổ sung 2 vụ án với 10 bị can; ban hành cáo trạng truy tố 2 vụ án với 304 bị can; xét xử sơ thẩm 5 vụ án với 140 bị cáo; xét xử phúc thẩm 2 vụ án với 9 bị cáo16

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tích cực, khẩn trương hoàn thành 7/8 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 7 tổ chức đảng liên quan đến các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; qua kiểm tra, đã xử lý kỷ luật đối với 68 tổ chức đảng, 104 đảng viên, trong đó có 20 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Chỉ đạo, đôn đốc 68 cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành kiểm tra 830 dự án, gói thầu liên quan đến Công ty AIC. Đến nay, 60/68 cấp ủy, tổ chức đảng hoàn thành việc kiểm tra đối với 782/830 dự án, gói thầu; qua kiểm tra, đã xử lý kỷ luật 65 tổ chức đảng, 127 đảng viên, chuyển cơ quan điều tra 26 vụ việc có dấu hiệu tội phạm17.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, như: điều chỉnh chính sách; duy trì chính sách; nội dung và mục tiêu áp dụng chính sách; sự phối kết hợp thực hiện chính sách giữa các đơn vị liên quan; việc đánh giá, kiểm tra thực hiện chính sách… Việc nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay góp phần bảo đảm hiệu quả của chính sách, hạn chế tình trạng tham nhũng nghiêm trọng ở Việt Nam hiện nay. Vận dụng quan điểm của Lênin trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện những giải pháp đồng bộ, kiểm soát quyền lực của Nhà nước để ngăn ngừa hành vi vi phạm tham nhũng.

4. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phòng, chống tham nhũng hiện nay

Một là, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Tham nhũng thể hiện rõ sự “tha hóa” của quyền lực nhà nước, vì vậy, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến chính sách phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thể chế kiểm soát càng chặt sẽ, quy định rõ ràng thì quyền lực càng được kiểm soát chặt chẽ, sẽ hạn chế được các vấn đề liên quan đến tham nhũng trong xã hội. 

Việc tổ chức và triển khai tăng cường các phương thức kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng cần tiến hành định kỳ, đặc biệt định kỳ lấy phiếu tín nhiệm đối với những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn của những vị trí chủ chốt trong Đảng tại các kỳ họp của Trung ương. 

Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng với các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng của Nhà nước cần phát huy vai trò của mình. Với việc xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng cần phải được bổ sung nhiều quyền hơn trong điều tra các hành vi tham nhũng; áp dụng các biện pháp đặc biệt trong điều tra; đề nghị xử lý hay kiến nghị sửa đổi những kẽ hở trong hệ thống và thủ tục hành chính…

Hai là, thực hiện dân chủ trong Đảng một cách thực chất và tăng cường hoạt động giám sát của người dân.Kiểm tra, kiểm soát là chìa khóa hữu hiệu để thực thi dân chủ trong Đảng vì nó liên quan trực tiếp tới quyền lực của Nhân dân trong quyết định bầu, bãi miễn đối với người được ủy quyền, nhất là ở cơ sở có ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách phòng, chống tham nhũng của Việt Nam. Do vậy, phải tăng cường thực hiện dân kiểm tra đối với các hoạt động của Đảng và Nhà nước, các đoàn thể quần chúng ở mọi cấp với nhiều hình thức, như: thanh tra nhân dân, kiểm tra nhân dân… Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp và thông qua Mặt trận và các đoàn thể, Ban Thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt động của của chính quyền, thủ trưởng cơ quan đơn vị; kết quả kiểm tra, thanh tra của Nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.

Xây dựng cơ chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức được bàn bạc và tham gia ý kiến, lấy ý kiến của Nhân dân đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thực hiện dân bàn đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích dân tộc, cộng đồng cũng như trong xây dựng hệ thống chính trị. Cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng ta xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa Nhà nước và Nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Mở rộng, đa dạng hóa thông tin, nâng cao chất lượng thông tin để thực hiện dân biết, làm cơ sở cho dân bàn bạc xây dựng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương, cơ sở. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã quy định, quyền của Nhân dân được thông tin về pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là các vấn đề liên quan đến đời sống, lợi ích hàng ngày của Nhân dân ở cơ sở; hình thành các chế độ báo cáo công khai trước dân công việc của chính quyền cơ quan, đơn vị về sản xuất và phân phối, về sử dụng công quỹ, tài sản công, vấn đề tài chính, các khoản đóng góp của dân, các chế độ thu, chi sử dụng tài chính.

Ba là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ.

Đổi mới nội dung, chương trình và đổi mới phương pháp đào tạo, gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Trong yêu cầu mới của chính sách phòng, chống tham nhũng, công tác đào tạo, bồi dưỡng cần chú trọng đến yếu tố đạo đức công vụ, đề cao những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp về cách “làm người”. Từ đó, tạo dựng khả năng tự “miễn dịch” và “xấu hổ” với bản thân nếu tham nhũng; đồng thời, nâng cao tư duy, cách nhìn và đánh giá của bản thân cán bộ về vấn đề tham nhũng để tự bản thân “sản sinh” ra những biện pháp, cách thức ứng xử phù hợp đúng theo quy định với các biểu hiện, hành vi tham nhũng diễn ra trong thực tiễn cuộc sống.

Đồng hành với công tác đào tạo, bồi dưỡng, việc bổ nhiệm cán bộ cần có quy trình tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công khai và công bằng. Chấm dứt một số vấn đề đang diễn ra, như: cơ cấu tùy tiện, bè phái, phe cánh và áp đặt trong bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng, rà soát kế hoạch luân chuyển cán bộ bảo đảm tính dân chủ, công bằng và đúng quy định. Hoàn hiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức của từng cấp, ngành, cơ quan và từng đơn vị. Xét xử nghiêm minh, công khai các cán bộ có hành vi tham nhũng; xác định rõ “không có vùng cấm” nhằm xử phạt nghiêm minh và đúng pháp luật từ những người đứng đầu đến những người có hành vi tham nhũng. 

5. Kết luận

Là vấn đề mang tính phổ biến, tham nhũng đã và đang trở thành vấn đề nghiêm trọng, nguy hại đến sự tồn vong của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng được xem là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các nước. Trên cơ sở nghiên cứu cách tiếp cận tham nhũng, cũng như những giải pháp phòng, chống tham nhũng của V.I.Lênin đã có ý nghĩa tham chiếu để nhận diện tham nhũng và giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Nhờ đó, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả cao, thể hiện rõ quyết tâm cũng như khả năng phòng, chống tham nhũng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Chú thích:
1. V.I.Lênin đã viết tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”  vào tháng 6/1918. Gồm những bài viết,sơ thảo, đề cương của V.I.Lênin về nhiệm vụ của chính quyền Xô viết như: nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, kiểm kê, kiểm soát toàn dân. Nâng cao năng suất lao động, tổ chức chuyên chính và sự phát triển của tổ chức Xô viết.
2. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 37. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 511.
3, 6. V.I.Lênin toàn tập (1976). Tập 33. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 141, 141.
4. V.I.Lênin toàn tập (1978).  Tập 8. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr.424.
5. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 54. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 235.
7. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 42. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 309.
8. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 38. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 199.
9. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 43. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 109.
10, 11. V.I.Lênin toàn tập (1977). Tập 41. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 34.
12, 13. V.I.Lênin toàn tập (1978). Tập 44. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 453, 452. 
14. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998). Pháp lệnh số 2-L/CTN ngày 26/02/1998 về việc chống tham nhũng
15. Nguyễn Phú Trọng (2023). Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 18.
16, 17. Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực họp thảo luận, cho ý kiến đối với kết quả chỉ đạo xử lý một số vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực. https://ubkttw.vn/danh-muc/tin-tuc-thoi-su/thuong-truc-ban-chi-dao-trung-uong-ve-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-hop-thao-luan-cho-y-kien-doi-voi-ket-qua-chi-dao-x.html.