ThS. Phùng Kim Anh
Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục và đào tạolà quốc sách hàng đầu. Đại hội VI (1986) xác định “Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội”1 và “sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”2. Từ chủ trương đổi mới của Đảng, trường đại học tư thục đầu tiên ở nước ta ra đời là Trường Đại học tư thục Thăng Long (1988). Đến nay, hệ thống đại học tư thục đã có những đóng góp quan trọng vào đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn có nhiều hạn chế, bất cập. Bài viết làm rõ những ưu điểm và hạn chế, từ đó, đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước để đại học tư thục phát triển đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Quản lý nhà nước; giáo dục và đào tạo; đại học tư thục; đại học dân lập; thực trạng; giải pháp; văn bản chính sách.
1. Thực trạng quản lý nhà nước đối với đại học tư thục ở Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới giáo dục của Đảng trong thời kỳ đổi mới được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng và tiếp tục được phát triển qua các kỳ Đại hội. Chủ trương của Đảng về giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đại học nói chung và đại học tư thục nói riêng đã được Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách tăng cường nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển các trường đại học tư thục ở Việt Nam.
Thứ nhất, về việc ban hành các văn bản pháp lý.
Nhà nước đã xây dựng và ban hành văn bản luật nhiều cơ chế, chính sách đối với đại học tư thục, như:
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 240-TTg ngày 24/5/1993 ban hành Quy chế Đại học tư thục. Quy chế quy định tư nhân thành lập đại học tư thục; nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân; sở hữu là tư nhân (cổ phần của các chủ đầu tư); quản trị dựa vào nhà đầu tư (2/3 hội đồng quản trị là nhà đầu tư); hội đồng quản trị được tự chủ toàn diện về tổ chức và tài chính.
Năm 1994, Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số 196/1994/QĐ-TTg ban hành “Quy chế tạm thời đại học dân lập”. Các nội dung chính tương tự Quyết định số 240/1993/QĐ-TTg. Sự khác biệt chính là thay cụm từ “tư thục” bằng cụm từ “dân lập”. Để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển giáo dục đại học ngoài công lập, ngày 21/8/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao.
Năm 1998, Quốc hội ban hành Luật Giáo dục, sau đó để hướng dẫn Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000. Đây là những văn bản chính sách quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển các trường đại học tư thục phát triển. Để hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động cho các trường đại học dân lập, ngày 18/7/2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg kèm theo Quy chế trường đại học dân lập. Theo Luật Giáo dục năm 1998 và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP thì hệ thống giáo dục đại học bao gồm 4 loại hình: công lập, bán công, dân lập và tư thục.
Đến năm 2005, Luật Giáo dục sửa đổi quy định “trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư…”, không thừa nhận mô hình đại học dân lập ở bậc đại học; công nhận “tài sản, tài chính của trường tư thục thuộc sở hữu của các thành viên góp vốn”; chỉ rõ chênh lệch thu chi sau khi thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước (thuế), thiết lập quỹ, “thu nhập còn lại được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp”.
Triển khai Luật Giáo dục năm 2005, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn chuyển loại hình trường đại học dân lập sang đại học tư thục. Như vậy, theo Luật Giáo dục năm 2005, Việt Nam chỉ còn một loại hình đại học tư thục. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ loại hình đại học dân lập sang đại học tư thục cũng gặp nhiều khó khăn, đến nay vẫn chưa chuyển đổi hết mặc dù đã ban hành gần 20 năm.
Năm 2012, Luật Giáo dục đại học ra đời. Luật có 3 nhóm nội dung tác động mạnh đến đại học tư thục: (1) Đại học tư thục được coi là “hoạt động không vì lợi nhuận” nếu “các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hàng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ”(2) Dành ít nhất 25% chênh lệch thu chi để tái đầu tư, tài sản này “là tài sản chung không chia”; (3) Thành phần hội đồng quản trị có thêm các thành phần đương nhiên, như: hiệu trưởng; cơ quan quản lý địa phương; tổ chức đảng, đoàn thể; đại diện giảng viên.
Tinh thần của Luật Giáo dục đại học năm 2012 được đưa vào “Điều lệ trường đại học” với đối tượng áp dụng gồm cả đại học tư thục. Đặc biệt “Tổ chức quản lý của trường đại học tư thục không vì lợi nhuận”. Theo đó, tài sản nhà trường là sở hữu tập thể, các thành viên làm việc trong nhà trường và nhà đầu tư ngang quyền; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trường đại học tư thục không vì lợi nhuận.
Có thể thấy, Nhà nước đã ban hành bổ sung, hoàn thiện nhiều cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập, góp phần nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách.
Thứ hai, quan tâm đến bộ máy, nguồn nhân lực.
Bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học được kiện toàn ngày một hoàn thiện, đã phân cấp, phân quyền, đa dạng hóa các chủ thể quản lý được xây dựng từ trung ương xuống địa phương, trao quyền chủ động cho địa phương, các trường và đặc biệt là sự tham gia của các thành phần xã hội vào quản lý giáo dục đóng vai trò “phản biện xã hội” giúp cho công tác quản lý các trường đại học tư thục đạt hiệu quả cao hơn.
Đội ngũ giảng viên được phát triển cả về số lượng và chất lượng, lực lượng giảng viên tham gia giảng dạy tại các trường đại học tư thục ngày càng đa dạng không chỉ bó hẹp trong nước mà còn cả nước ngoài. Cũng như đội ngũ giảng viên ở các trường đại học công lập, giảng viên trường đại học tư thục cũng được cử đào tạo trình độ tiến sĩ và thạc sĩ toàn thời gian ở nước ngoài nhằm nâng cao trình độ, thu hút nguồn giảng viên xuất sắc.
Bên cạnh đó, với việc tự chủ và chịu trách nhiệm về tài chính của các trường đại học đã khai thác hiệu quả các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo phù hợp với điều kiện của từng trường: huy động các nguồn lực từ công tác nghiên cứu khoa học, liên kết với các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao động…
Thứ ba, quan tâm đến nâng cao kiểm định chất lượng các trường đại học tư thục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường công tác thanh kiểm tra, kiểm định chất lượng của các trường đại học tư thục, kiểm tra cam kết thành lập trường với điều kiện thực tế, kiểm tra công tác tuyển sinh, đào tạo của các trường đại học tư thục và kịp thời đình chỉ, cảnh cáo các cơ sở giáo dục không đảm bảo chất lượng.
Hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đại học được triển khai nghiêm túc và trên quy mô toàn diện đã mang lại nhiều kết quả khả quan, việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong đã được các trường đại học tư thục quan tâm thực hiện. Tới nay, đa số các trường đại học tư thục đều thành lập đơn vị chuyên trách về bảo đảm chất lượng giáo dục. Một số trường đại học đã tham gia xếp hạng bởi tổ chức quốc tế, không những khẳng định được thương hiệu mà còn làm cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Số lượng các trường có tên trong các bảng xếp hạng quốc tế ngày càng nhiều và thứ hạng cũng từng bước được cải thiện.
3. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý nhà nước đối với các trường đại học tư thục còn một số hạn chế, như:
Một là, cơ chế, chính sách vẫn còn thiếu bình đẳng giữa các trường đại học công lập và trường đại học tư thục.
Các trường đại học công lập và trường đại học tư thục đều làm nhiệm vụ như nhau. Tuy vậy, trường đại học công lập được Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Trong khi đó, trường đại học tư thục không những không được quyền lợi như đại học công lập mà những quy định về “khuyến khích xã hội hóa đối với giáo dục” tại các nghị định của Chính phủ còn bộc lộ không ít sự không bình đẳng và thiếu khả thi, tạo nên gánh nặng trên vai sinh viên đại học tư thục…
Chính sách về cho vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển đại học tư thục hiện nay còn chưa cụ thể và phụ thuộc vào chính sách của từng tỉnh/thành phố, có rất ít trường tiếp cận được để vay vốn và thời gian cũng khá ngắn nên rất dễ mất cân đối để duy trì trường và đối với các khoản vay từ các ngân hàng lại phát sinh khoản lãi suất cao là áp lực rất lớn cho các trường.
Việc ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện cụ thể của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các địa phương chưa đầy đủ, đồng bộ và theo kịp với tình hình phát triển; về hướng dẫn việc xác định các điều kiện được hưởng chính sách xã hội hóa chưa được thống nhất giữa các ngành… Trên thực tế, hiện nay, đa số các trường đại học tư thục chưa nhận được sự hỗ trợ đất đai hay cho vay tín dụng để xây dựng trường như trong Nghị định số 69/2008/NĐ-CP đề ra. Hơn nữa, đại đa số các trường đại học ngoài công lập khó tiếp cận được các ưu đãi bởi không thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Quyết định số 693/QĐ-TTg, ngày 06/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù Nhà nước có chính sách cho vay học phí không phân biệt sinh viên trường đại học công lập hay đại học tư thục, song thực tế cho thấy, chính sách này vẫn chưa đủ bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng. Các trường đại học tư thục có mức học phí cao phải rất vất vả để duy trì chất lượng và thu hút sinh viên, trong khi đất đai và cơ sở vật chất hạn hẹp, không được hưởng các nguồn kinh phí như trường công lập.
Bên cạnh đó, quan hệ đối tác công – tư thể hiện tác động qua lại giữa Nhà nước và thị trường, trong đó khu vực công và khu vực tư là các đối tác bình đẳng với nhau trong phát triển giáo dục đại học. Vì thế, quan hệ công – tư không chỉ giới hạn ở việc xây dựng và phát triển các cơ sở giáo dục đại học tư thục mà còn bao gồm việc khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục đổi mới cơ chế hoạt động để tăng các khoản thu ngoài ngân sách.
Hai là, còn thiếu chính sách và những quy định cụ thể hóa, quán triệt quyền tài sản ở các trường đại học tư thục.
Việc đầu tư vào đại học tư thục rất đa dạng. Một số trường đại học tư thục có chủ thể góp vốn chỉ là một công ty hay một gia đình (tương tự công ty TNHH một thành viên), một số trường hợp được đầu tư bởi các tập đoàn (Trường Đại học FPT, Trường Đại học Hòa Bình…) Trong khi đó, mô hình quản trị đại học tư thục đang là “cái bóng” của công ty cổ phần. Điều này khiến chủ đầu tư phải “biến hóa” để nắm giữ quyền quản trị, đem đến nhiều hệ lụy phức tạp. Khoản 7 Điều 4 Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định: “Cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học mà phần lợi nhuận tích lũy hàng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hàng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu chính phủ”. Thế nhưng, thực tế Nhà nước chưa có khoản tín dụng nào ưu đãi đại học tư thục. Vì thế, Nhà trường phải huy động vốn theo thỏa thuận cao hơn “lãi suất trái phiếu chính phủ” và hạch toán lãi suất vào chi phí. Hơn nữa, nhà đầu tư cũng phải tìm đủ cách để cổ tức “không vượt quá lãi suất trái phiếu chính phủ”. Kết quả là, chưa ai xác định được cơ sở đại học nào là “không vì lợi nhuận”, do không ít nhà đầu tư tự nhận cơ sở đại học do mình đầu tư là “không vì lợi nhuận”.
Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước đối với quá trình đào tạo của đại học tư thụccòn nhiều bất cập, đôi khi còn lỏng lẻo, dẫn đến những sai phạm của một số trường đại học tư thục thời gian qua.
Để tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với đại học tư thục trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về trường đại học tư thục.
Tiếp tục rà soát hệ thống các văn bản, chính sách đã ban hành liên quan đến giáo dục đại học nói chung và đại học tư thục nói riêng. Loại bỏ các văn bản còn chồng chéo, mâu thuẫn và không phù hợp với giai đoạn phát triển mới (Chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, định hướng đến 2030 và 2050 trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII). Ban hành các văn bản để thay thế, kịp thời cập nhật những chủ trương, định hướng mới của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đại học tư thục.
Hoàn thiện khung khổ pháp lý về địa vị pháp lý, quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức đầu tư cho giáo dục đại học tư thục, về sử dụng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Chính phủ và các bộ, ngành cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và các luật có liên quan, trong đó cần hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức, các nhân trong cơ cấu trường đại học tư thục (về nhà đầu tư, hội nghị nhà đầu tư, chuyển nhượng vốn và rút vốn đầu tư; về hội đồng trường, thẩm quyền của hội đồng trường, thẩm quyền hội nghị nhà đầu tư khi quyết định và công nhận hội đồng trường, chủ tịch hội đồng trường – chủ tài khoản trường, hiệu trưởng – người đại diện pháp luật của nhà trường).
Thứ hai, đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học. Nhằm bảo đảm công bằng trong hưởng thụ dịch vụ giáo dục của người dân, không phân biệt sinh viên học trường tư hay học trường công. Hoàn thiện cơ chế: Nhà nước đặt hàng đào tạo đối với trường công và trường tư. Dần dần xóa bỏ cơ chế cấp phát ngân sách cho sinh viên học đại học. Thực hiện chính sách cho sinh viên trường công và trường tư được vay ưu đãi để trả học phí và chi phí đào tạo; đổi mới cơ chế đầu tư trực tiếp sang cơ chế đầu tư gián tiếp thông qua chính sách cho sinh viên vay để trang trải chi phí học đại học.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quyền lợi của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong các trường đại học tư thục, bảo đảm ít nhất ngang bằng với đội ngũ nhà giáo làm việc trong trường đại học công lập.
Chính phủ và các bộ ngành, địa phương cần rà soát các điều kiện đầu tư, các chính sách thuế, chính sách đất đai trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm thủ tục không cần thiết, đơn giản hóa quy trình thủ tục cho nhà đầu tư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đảm bảo thông tin thông suốt và minh bạch; giải quyết kịp thời những thắc mắc của nhà đầu tư trong quá trình thành lập, hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học tư thục.
Thứ ba, bảo đảm đối xử bình đẳng và tạo môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch. Không phân biệt người học đang học trường đại học công lập hay học trường đại học tư thục, người học đều được tiếp cận cơ hội giáo dục và hưởng lợi bình đẳng từ các chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục và hiện thực hóa chủ trương để các trường đại học tư thục được tiếp cận, thụ hưởng vốn viện trợ ODA theo quy định của pháp luật liên quan. Sớm bổ sung các quy định để các trường đại học tư thục được tiếp cận nguồn vốn vay nước ngoài (vay ODA, vay ưu đãi), (hiện nay các trường đại học tư thục chưa thuộc đối tượng được cấp phát từ nguồn vốn vay).
Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục thực hiện chính sách cho các trường đại học tư thục được tiếp cận, thụ hưởng nguồn vốn tín dụng trong nước ưu đãi.
Tạo điều kiện thuận lợi về thị thực, giấy phép lao động để khuyến khích các nhà trí thức, doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ và tài chính cho phát triển giáo dục đại học tư thục.
Tạo cơ chế, chính sách để trường đại học tư thục hợp tác với đại học công lập, liên kết khai thác cơ sở sở vật chất, bản quyền, thương hiệu, nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lực và cạnh tranh, hội nhập quốc tế.
Thứ tư, tăng cường quản lý chất lượng giáo dục của các trường đại học tư thục.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học theo hướng kết hợp sử dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.
Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
Thứ sáu, đẩy nhanh việc hoạch định, tổ chức sắp xếp lại hệ thống các trường đại học tư thục.
Thực tế hiện nay vẫn còn khoảng 8 trường đại học dân lập chưa chuyển thành đại học tư thục. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tham mưu Chính phủ có điều kiện tháo gỡ khó khăn để chuyển đổi. Bộ cần tăng quyền tự chủ học thuật cho các trường đại học tư thục cùng với việc kiểm tra, giám sát thường xuyên hoạt động của các trường đại học tư thục nói riêng và toàn hệ thống giáo dục đại học nói chung. Việc đánh giá chất lượng trong quá trình đào tạo và chất lượng đầu ra cần được thực hiện thường xuyên, chặt chẽ, nghiêm túc, công khai, minh bạch và chuẩn hóa trên cơ sở đổi mới, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, giảm thiểu thủ tục hành chính.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế và năng lực nghiên cứu khoa học.
Hợp tác quốc tế có vai trò quan trọng, thiết yếu trong tiến trình phát triển của các trường đại học nói chung và các trường đại học tư thục nói riêng. Đây là một trong những nhiệm vụ và giải pháp chiến lược quan trọng của các trường trong tiến trình phát triển.
Thông qua việc hợp tác và phát triển quan hệ quốc tế góp phần thiết thực đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng và cải tiến cơ sở vật chất, trang thiết bị, bổ sung nguồn thông tin, tư liệu về giáo dục – đào tạo, học hỏi chia sẻ kinh nghiệm trong quản trị trường đại học.
Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tiếp tục rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này để kịp thời hoàn thiện, giải quyết những “nút thắt” tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các trường đại học tư thục phát triển.
Thứ tám, tăng cường, đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với các trường đại học tư thục.
Cần đổi mới cách thức quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với các cơ sở giáo dục đại học nói chung và các trường đại học tư thục nói riêng bằng các biện pháp tăng cường cơ chế giám sát, coi đây là chủ yếu, dần thay thế việc kiểm soát của Nhà nước, cụ thể, như:
(1) Thành lập mạng lưới giám sát chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học, bao gồm cơ quan giám sát từ các đơn vị của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Thanh tra, Vụ Giáo dục đại học, Cục Quản lý chất lượng) đến các Trung tâm Kiểm định chất lượng; các cơ quan chủ quản đến các cơ quan quản lý giáo dục tại các địa phương và sự giám sát của xã hội.
(2) Xây dựng công cụ giám sát các điều kiện bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học theo các lĩnh vực: giám sát việc thực hiện điều kiện đảm bảo chất lượng về đội ngũ giảng viên; quy mô ngành đào tạo và trình độ đào tạo; chương trình đào tạo; tuyển sinh và tổ chức đào tạo; cơ sở vật chất, trang thiết bị, thư viện:
(3) Xây dựng cơ chế phối hợp (cơ chế pháp lý, nguồn lực) để sử dụng các mạng lưới giám sát từ xã hội (cơ quan truyền thông, công an…) để giám sát, phát hiện kịp thời các sai phạm trong các lĩnh vực hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học.
(4) Tăng cường và đổi mới cách thức thanh tra, kiểm tra (định kỳ, đột xuất) đối với các cơ sở giáo dục đại học. Thay đổi hình thức kiểm tra thay vì hàng năm kiểm tra được một số lượng ít ỏi các cơ sở giáo dục đại học thì có thể đồng loạt kiểm tra qua việc cung cấp hồ sơ online. Các đơn vị chuyên trách của Bộ, ngành liên quan có thể kiểm tra và công bố công khai kết quả kiểm tra trên trang thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giao cho các Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục hằng năm kiểm tra độc lập các điều kiện bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học.
(5) Tăng cường kiểm tra, giám sát các trường đại học tư thục thực hiện cam kết thành lập trường và có chế tài xử lý đối với những trường không tuân thủ hoặc có giải pháp giải thể, sáp nhập. Công bố thông tin về kết quả kiểm tra, giám sát để người học và xã hội được biết.
5. Kết luận
Trong bối cảnh mới với xu thế hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều thuận lợi thời cơ cũng như khó khăn, thách thức đối với sự phát triển giáo dục đại học nói chung và đại học tư thục nói riêng ở nước ta, đòi hỏi Nhà nước cần nhanh chóng có những đổi mới trong công tác quản lý để đại học tư thục phát triển bền vững, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 47. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 772, 772.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật 2021.
2. Đặng Văn Định (2019). Phân tích cơ chế chính sách phát triển giáo dục đại học tư thục Việt Nam thời kỳ 1988 – 2018. Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 95 (156) tháng 2/2019.
3. Thái Vân Hà (2019). Phát triển trường đại học tư thục ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. Tạp chí Tài chính, kỳ 1 – tháng 9/2019 (712).
4. Phạm Thị Ly (2015). Khuyến nghị chính sách cho giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm Đông Á. Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số 115 (tháng 4/2015).
5. Nguyễn Thị Kim Quế (2020). Xã hội hóa giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Chủ nghĩa xã hội, số 5, tháng 9/2020.
6. Quốc hội (2005). Luật Giáo dục năm 2005
7. Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học năm 2012.
8. Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15/01/2009 quy định về điều kiện thành lập và cho phép thành lập, chia tách, giải thể, đình chỉ hoạt động các cơ sở giáo dục đại học.
9. Thủ tướng Chính phủ (2013). Quyết định số 64/2013/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 với những quy định tăng dần vốn điều lệ và giảm yêu cầu về đất.
10. Giải pháp phát triển hệ thống các trường đại học tư thục Việt Nam. https://giaoduc.net.vn/ ngày 22/9/2018.