TS. Phan Hải Hồ
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Lạm quyền và tham nhũng, tiêu cực là các yếu tố gắn liền với nhau, xuất hiện trong các tổ chức “có tính quyền lực” của hệ thống chính trị, đặc biệt là trong bộ máy nhà nước và tổ chức Đảng. Ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 178-QĐ/TW quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Đây là chủ trương đúng đắn, quyết liệt của Đảng nhằm làm cho quá trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật được “dĩ công vi thượng” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực thi công vụ. Bài viết tập trung phân tích thực tiễn và nguyên nhân của mối quan hệ giữa lạm quyền với tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Lạm quyền; tham nhũng; tiêu cực; xây dựng pháp luật; phòng, chống tham nhũng.
1. Đặt vấn đề
Thời gian qua ở nước ta, việc áp dụng pháp luật “sai” (vi phạm pháp luật) đều bị xử lý nhưng việc xây dựng và ban hành luật “sai” xâm hại đến lợi ích của Nhân dân, đất nước thì chưa bị xử lý. Yêu cầu đặt ra là cần phải xem xét, đánh giá và xử lý trách nhiệm “sai” trong công tác xây dựng pháp luật1. Ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 178-QĐ/TW quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật (gọi tắt là Quy định 178).
Quy định 178 là chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm định hướng cho công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước “đúng” với lợi ích của xã hội, Nhân dân. Theo đó, các khái niệm cơ bản đã được làm rõ, như: công tác xây dựng pháp luật, quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật, kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật; tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật (Điều 2 Quy định 178)…
Riêng khái niệm “lạm quyền” thì chưa được quy định nhưng thực tiễn được hiểu là hành vi vượt quá thẩm quyền của cá nhân, tổ chức, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của chủ thể “có quyền” hoặc “có thẩm quyền”. Lạm quyền trong thi hành công vụ được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã cố ý vượt quá giới hạn quyền lực cho phép, vượt quá quyền hạn mà pháp luật giao khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân. Do vậy, lạm quyền có nghĩa là không kiểm soát được quyền lực nên dẫn đến hành vi tham nhũng, tiêu cực xảy ra, đây là hệ quả tất yếu của hành vi lạm quyền.
Để bảo đảm giá trị thực thi trong thực tiễn, Quy định 178 định ra các nguyên tắc, phương thức kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Đồng thời, quy định 6 loại hành vi tham nhũng, 4 loại hành vi tiêu cực (từ Điều 3 – 6 Quy định 178) và trách nhiệm xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền (Điều 7 và Điều 16).
Từ các quyết sách đúng đắn, mang tính định hướng của Quy định 178 cho thấy cần thiết phải nghiên cứu trên phương diện khoa học chính trị – pháp lý đối với vấn đề lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật để có những khuyến nghị phù hợp với thực tiễn nước ta thời gian tới.
2. Thực tiễn và nguyên nhân của mối quan hệ giữa lạm quyền với tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật
2.1. Thực tiễn mối quan hệ giữa lạm quyền với tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật
Với trọng trách của mình, Chính phủ đã chỉ đạo thành lập các tổ công tác để rà soát, kiểm tra và xử lý văn bảnpháp luật theo từng lĩnh vực. Công tác này được thực hiện theo chỉ đạo từng năm, cụ thể2:
Năm 2021 tiến hành rà soát, kiểm tra, xử lý các lĩnh vực, nhóm văn bản quy định về đất đai; giáo dục, đào tạo; quản lý giá và thẩm định giá; chi phí trong hoạt động giám định tư pháp; nhận diện, đánh giá, đề xuất hướng khắc phục các tồn tại, hạn chế của quy định pháp luật trước tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Năm 2022 rà soát, kiểm tra, xử lý các lĩnh vực, nhóm văn bản quy định về nhà ở, kinh doanh bất động sản, quy hoạch đô thị, đấu giá tài sản (gồm các luật, bộ luật: Bộ luật Dân sự, Luật Dầu khí, Luật Thủy lợi, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Phí và lệ phí; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Điện lực; Luật Hợp tác xã, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); Luật Doanh nghiệp; Luật Quy hoạch); rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, tài chính, chứng khoán để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Năm 2023 rà soát, kiểm tra, xử lý các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong chính sách, pháp luật. Theo đó, số lượng văn bản pháp luật được các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, ban hành, được rà soát, kiểm tra và xử lý theo bảng thống kê cơ bản sau:
Bảng 1: Thống kê báo cáo rà soát, kiểm tra và xử lý văn bản pháp luật theo từng lĩnh vực từ năm 2021 – 2023
STT | Tên cơ quan và nhiệm vụ | Năm 2021 | Năm 2022 | Năm 2023 |
1 | Chính phủ trình Quốc hội | 2 luật, 5 nghị quyết; cho ý kiến 5 dự án luật khác | 12 luật, 6 nghị quyết; cho ý kiến 14 dự án luật khác | 12 luật, 6 nghị quyết; cho ý kiến 14 dự án luật khác |
2 | Chính phủ ban hành | 784 | 602 | 556 |
3 | Địa phương ban hành | 8.098 | 7.465 | 8.066 |
4 | Chính phủ kiểm tra, rà soát | 29.955 | 27.878 | 6.086 |
5 | Chính phủ và các địa phương đề nghị xử lý | 5.581 | 5.731 | 5.200 |
Theo số liệu tổng hợp thì đã xuất hiện các văn bản trái pháp luật, bị đề nghị xử lý sau khi kiểm tra, rà soát. Các lĩnh vực, như: đầu tư, đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài chính công, tài sản công, chứng khoán, quy hoạch, đầu tư công, ngân sách nhà nước, hợp tác công tư, xã hội hóa các dịch vụ công, môi trường, xây dựng, kinh doanh bất động sản…, có mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, vướng mắc, thậm chí xuất hiện tình trạng “lạm quyền” và lợi ích cục bộ, tiêu cực khi xây dựng văn bản.
Ở Trung ương, xuất hiện các thông tư của bộ, ngành và văn bản được bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ3, kể cả dự thảo luật4, các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ5 nhưng không bảo đảm các giá trị pháp lý, tuân thủ tính hợp pháp của văn bản được tham mưu, ban hành.
Ở địa phương, số lượng văn bản trái luật chủ yếu nằm ở các quyết định của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh về các lĩnh vực quản lý nhà nước, giải quyết các vấn đề bức xúc của địa phương trên cơ sở luật, nghị định, thông tư từ trung ương, thậm chí ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở văn bản chỉ đạo, hướng dẫn từ bộ, ngành6. Tuy nhiên, cách thức ban hành có thể vượt quá thẩm quyền của chủ thể, sử dụng quy phạm cấm đoán hoặc trái pháp luật, vượt quá phạm vi điều chỉnh của văn bản Trung ương. Ví dụ công tác rà soát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật ở một số địa phương được thực hiện như sau:
TP. Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng văn bản ban hành nhiều, đang thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù, đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết phải giải quyết bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Theo các báo cáo của Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh về công tác tư pháp từ năm 2021 – 2023: Báo cáo số 4506/BC-STP-VP ngày 25/11/2021; Báo cáo số 5914/BC-STP-VP ngày 25/11/2022; Báo cáo số 6600/BC-STP-VP ngày 21/11/2023, qua kiểm tra, rà soát công tác xây dựng pháp luật các năm trên địa bàn: năm 2021 không có văn bản trái pháp luật. Năm 2022 có 4 văn bản trái pháp luật về các lĩnh vực như phòng cháy, chữa cháy; giải quyết tranh chấp đất đai; hỗ trợ chi phí thuê nhà ở tạm cư cho hộ gia đình, cá nhân trong thời gian chờ bố trí nhà ở, đất ở tái định cư; thí điểm xây dựng công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp trên đất nông nghiệp khác và phi nông nghiệp khác, các văn bản này đã được bãi bỏ. Năm 2023, có 2 văn bản trái pháp luật về các lĩnh vực như giảm nghèo đa chiều; các khoản thu và mức thu, cơ chế quản lý thu chi đối với các dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục, các văn bản này đã được bãi bỏ.
Tỉnh Bến Tre cũng là địa phương thực hiện tốt công tác rà soát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Theo các báo cáo của UBND tỉnh Bến Tre về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác tư pháp từ năm 2021 – 2023: Báo cáo số 555/BC-UBND ngày 26/11/2021; Báo cáo số 665/BC-UBNDngày 30/11/2022 và Báo cáo số 716/BC-UBND ngày 28/11/2023, qua kiểm tra, rà soát công tác xây dựng pháp luật các năm trên địa bàn, năm 2021 không có văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật nên không đề nghị xử lý; đã quyết định công bố danh mục văn bản của Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND tỉnh hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần năm 2020 và tháng 01/2021. Năm 2022 đã kiểm tra theo thẩm quyền 52 văn bản của HĐND, UBND cấp huyện, qua kiểm tra, không phát hiện văn bản trái với quy định pháp luật; đã ban hành Danh mục văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong năm 2021. Năm 2023, công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền được cơ quan tư pháp thực hiện thường xuyên, kịp thời theo đúng quy định7; qua kiểm tra, không phát hiện văn bản trái với quy định pháp luật; qua rà soát, UBND tỉnh đã chỉ đạo cơ quan có liên quan tham mưu tự xử lý 1 văn bản.
Tỉnh Bình Dương là địa phương ở khu vực Đông Nam Bộ thực hiện tốt công tác rà soát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. UBND tỉnh Bình Dương đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác tư pháp từ năm 2021 – 2023, như: Báo cáo số 13/BC-UBND ngày 24/01/2022; Báo cáo số 03/BC-UBND ngày 26/01/2023; Báo cáo số 02/BC-UBND ngày 10/01/2024, qua kiểm tra, rà soát công tác xây dựng pháp luật các năm trên địa bàn: Năm 2021 có 6 văn bản hết hiệu lực một phần; đề xuất kiến nghị xử lý đối với 35 văn bản. Năm 2022 có 48 văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ; 3 văn bản hết hiệu lực một phần, có 35 văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành hiện không còn phù hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ; đã xử lý 25/35 văn bản, còn 10/35 văn bản đang trong quá trình xử lý. Năm 2023 có 66 văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ, 5 văn bản hết hiệu lực một phần, có 13 văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành hiện không còn phù hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ, đã xử lý 12/13 văn bản, còn 1/13 văn bản đang trong quá trình xử lý.
2.2. Thực tiễn mối quan hệ giữa lạm quyền với tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật
Thứ nhất, lạm quyền có vai trò tiên quyết làm xuất hiện tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng pháp luật, phát sinh biện chứng từ mối quan hệ giữa cơ chế kiểm soát quyền lực với thực hiện xây dựng pháp luật.
Trong công tác xây dựng pháp luật, nguyên tắc cơ bản là phải có quyền lực thì mới được xây dựng và ban hành pháp luật. Như vậy, quyền lực phải thực thi trong khuôn khổ giới hạn thẩm quyền, không được lạm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, do thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực nên các giai đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật, như: (1) Lựa chọn vấn đề chính sách bị lạm dụng bằng các hành vi vận động của chủ thể có thẩm quyền để lợi ích cốt lõi được ưu tiên “luật hóa”, được hóa giải ở tầm chính sách, thông qua các dự thảo ban đầu của văn bản; (2) Soạn thảo chính sách thành pháp luật bị làm dụng thông qua lồng ghép các nội dung chính sách vào dự thảo văn bản, tạo ra các thủ tục, yêu cầu, điều kiệnvà các “giấy phép con” để trục lợi bằng chính sách; (3) Thông qua dự thảo văn bản pháp luật, đó là việc lạm dụng bằng các hành vi “vận động hành lang” bằng phiếu ủng hộ, các định hướng theo kiểu “cây gậy và củ cà rốt” của những chủ thể có thẩm quyền quyết định về chính sách thông qua dự thảo văn bản pháp luật.
Thứ hai, lạm quyền có vai trò chính trong việc “ngầm chuyển quyền” gây ra tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Chính chủ thể có quyền trong tham mưu soạn thảo sẽ có thẩm quyền quyết định “chuyển quyền” của mình thông qua chủ thể có thẩm quyền ký văn bản. Mặt khác, các chính sách có khả năng xung đột lợi ích trên thực tếvới “người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo” (bộ trưởng các bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh vực) nên có thể lạm quyền bằng cách “ngầm” chuyển chức năng chính từ việc xây dựng luật của Quốc hội sang của cơ quan hành pháp (luật của Chính phủ hoặc bộ, ngành tham mưu, thậm chí là của vụ, cục thuộc bộ, ngành tham mưu).
Thứ ba, lạm quyền góp phần tạo ra tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật từ việc tham gia vai trò “ẩn giấu” đi cơ chế phản biện, giải trình, minh bạch về xây dựng, tham vấn và phản biện chính sách trong dự thảo văn bản pháp luật. Thực tiễn hiện nay đang thiếu cơ chế phản biện từ bên ngoài trong xây dựng các văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành luật, các văn bản hướng dẫn nghị định… Tiêu biểu là tình trạng “đóng kín” phản biện từ bên ngoài, giải trình từ bên trong, thiếu khách quan, minh bạch (giải trình, phản biện mang tính chủ quan, nội bộ, không được sự đồng thuận của dư luận xã hội), thậm chí xuất hiện “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng thông tư của bộ, ngành. Việc ban hành luôn tiềm ẩn rủi ro là sẽ chỉ tập trung phản ánh ý chí chủ quan của bộ, ngành mà không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của các chủ thể khác, nhất là các đối tượng xã hội chịu sự tác động của văn bản, kể cả Nhân dân8.
Thứ tư, lạm quyền và tham nhũng, tiêu cực có mối quan hệ biện chứng với nhau do chưa có quy định về yêu cầu đánh giá tác động của chính sách đến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nên thực tiễn dễ xảy ra lạm quyền. Các quy định hiện hành về đánh giá tác động chính sách chưa đề cập đến khả năng tham nhũng và phòng, chống tham nhũng của chính sách trong dự thảo văn bản pháp luật.
Thứ năm, lạm quyền là hệ quả của tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật vì thiếu các quy định pháp lý cụ thể về kiểm soát tham nhũng, tiêu cực. Do vậy, quá trình xây dựng pháp luật thường dễ xảy ra lạm quyền, nghĩa là không tuân thủ quy định về thẩm quyền ban hành, thẩm quyền thẩm định, thẩm quyền cho ý kiến, báo cáo, giải trình, tiếp thu, cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm của các cơ quan chức năng.
Thứ sáu, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật là yếu tố thúc đẩy lạm quyền. Hiện nay, do thiếu chế tài xử lý vi phạm, các chủ thể có thẩm quyền dễ lạm quyền mà không sợ trách nhiệm pháp lý, gia tăng ham muốn lợi ích nên tham nhũng được xem là hệ quả tất yếu xảy ra.
Nguyên nhân của thực tiễn mối quan hệ giữa lạm quyền với tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
Một là, do Quy định 178 mới ban hành nên Nhà nước chưa có đủ thời gian thể chế hóa thành pháp luật; chưa quy định việc vận động hành lang (lobby) nên tạo ra sự tự tiện, không tuân theo trình tự, thủ tục luật định; chưa công khai danh tính đại biểu biểu quyết tại nghị trường để bảo vệ quyền lợi chung theo quan điểm đã được thống nhất của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân với ý nguyện của cử tri; chưa quy định trách nhiệm xây dựng pháp luật của các chủ thể là đại biểu, cơ quan chuyên trách của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; chưa xác định thẩm quyền tham mưu, tư vấn, xây dựng pháp luật chuyên ngành, chưa quy định rõ việc xây dựng pháp luật mang tính cục bộ, lợi ích nhóm của bộ, ngành, địa phương.
Hai là, bất cập về điều kiện tài chính, kỹ thuật cho công tác xây dựng pháp luật; thiếu cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật, các quy định về xác định cơ chế liên ngành trong xây dựng pháp luật để hạn chế cục bộ, lợi ích nhóm (từ khâu hoạch định chính sách, dự thảo, đánh giá tác động chính sách, triển khai xây dựng chính sách, đưa chính sách vào văn bản pháp luật…). Chưa thực hiện đánh giá tác động chính sách trên diện rộng, đủ thời gian, đa dạng đối tượng và ngành, lĩnh vực trong tiến trình xây dựng pháp luật.
Ba là, chưa xác định trách nhiệm pháp lý (kể cả chế tài, hậu quả bất lợi nhất) cho chủ thể xây dựng pháp luật, chế độ trọng thưởng khi kết quả áp dụng pháp luật hiệu quả trong thực tiễn; chưa thiết lập đội ngũ chuyên gia thực tài trong xây dựng, thẩm định và ban hành pháp luật với chế độ, chính sách đãi ngộ tương xứng; chưa áp dụng cơ chế dưỡng liêm cho đội ngũ xây dựng pháp luật.
Bốn là, thiếu tính chủ động về định hướng xây dựng pháp luật, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập của địa phương (văn bản địa phương khác hoặc mâu thuẫn với văn bản của trung ương) trong cơ chế thí điểm, cơ chế đặc thù (lãnh đạo trung ương thụ động chờ địa phương kiến nghị đề xuất mới xem xét, giải quyết).
3. Khuyến nghị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong xây dựng pháp luật
Thứ nhất, phải hoạch định chiến lược quốc gia về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật thời gian tới; tiếp tục hoàn thiện cơ chế phòng ngừa (xây dựng cơ chế “lồng nhốt quyền lực”; “kiểm soát quyền lực”), bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không cần” tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, cụ thể:
(1) Nhanh chóng thể chế hóa Quy định 178 thành pháp luật của Nhà nước để tạo hành lang pháp lý về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong xây dựng pháp luật.
(2) Luật hóa các vấn đề như trình tự, thủ tục và trách nhiệm pháp lý về vận động hành lang, công khai danh tính đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện biểu quyết tại nghị trường để bảo vệ quyền lợi của cử tri theo quan điểm đã được thống nhất với cử tri.
(3) Quy định trách nhiệm của các chủ thể là đại biểu, cơ quan chuyên trách của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong việc trình dự thảo văn bản pháp luật.
(4) Xác định thẩm quyền tham mưu, tư vấn, xây dựng pháp luật chuyên ngành, tiến tới loại bỏ việc xây dựng mang tính cục bộ theo bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, xây dựng cơ chế liên ngành để hạn chế cục bộ, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật: có phân công, phân nhiệm, trách nhiệm chủ trì, phối hợp từ hoạch định chính sách, tham mưu dự thảo, đánh giá tác động chính sách, triển khai xây dựng chính sách, đưa chính sách vào văn bản pháp luật… Đẩy mạnh xây dựng lộ trình hoạch định chính sách, tăng tính dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý; thực hiện đánh giá tác động chính sách khách quan, rộng khắp, có đủ thời gian, đủ đối tượng và ngành, lĩnh vực tham gia suốt tiến trình xây dựng pháp luật.
Thứ ba, thực hiện nghiêm quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các lĩnh vực, đặc biệt là Quy định 178 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, cụ thể:
(1) Cần xác định trách nhiệm pháp lý, trong đó đưa ra các chế tài gắn với hậu quả pháp lý mà chủ thể xây dựng pháp luật phải gánh chịu nếu xảy ra sai phạm và ngược lại, phải có khen thưởng xác đáng, áp dụng cơ chế dưỡng liêm trong công tác xây dựng pháp luật; đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia soạn thảo văn bản pháp luật có tài, có đức.
(2) Tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đặc biệt là xây dựng cơ chế giám sát toàn dân về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ tư, thực hiện quy trình xây dựng pháp luật khoa học, chặt chẽ; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, dân chủ khi lựa chọn quy phạm pháp luật, xây dựng và ban hành pháp luật…
Thứ năm, thống nhất quan điểm thực thi, tính chịu trách nhiệm, có cơ chế bảo vệ, khuyến khích cán bộ “6 dám” theo Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; Nghị định số 73/2023/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, xác định rõ cơ chế: pháp luật đúng, phải thực thi đúng; pháp luật sai, phải có các giải pháp kịp thời như kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế để có kết quả đúng.
Thứ sáu, các cơ quan có thẩm quyền cần định hướng xây dựng pháp luật, chú động tháo gỡ những vướng mắc, bất cập từ địa phương, đặc biệt là trong cơ chế, chính sách đặc thù đã trao cho địa phương thực hiện, tránh tình trạng cơ chế, chính sách đặc thù chỉ có trong nghị quyết, không được triển khai trong luật, văn bản dưới luật.
4. Kết luận
Với Quy định 178, các nghiên cứu, khuyến nghị giải pháp, chính sách về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật ở nước ta là cần thiết.
Thời gian tới, cần phải triển khai nhanh chóng, đúng định hướng theo Quy định 178. Nhà nước sớm thể chế hóa thành các quy định pháp luật, thực hiện nghiêm quy trình xây dựng pháp luật, có các chế độ khuyến khích, dưỡng liêm đối với nguồn nhân lực xây dựng pháp luật. Đồng thời, để việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đạt được hiệu quả cao nhất, cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực và xử lý trách nhiệm khi để xảy ra hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
Chú thích:
1. Làm luật sai thì sao? https://vietnamnet.vn/lam-luat-sai-thi-sao-2208430.html
2. Bộ Tư pháp (2022, 2023, 2024). Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2022 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2021 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2022; Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2023 của Bộ Tư phápvề tổng kết công tác tư pháp năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2023; Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2024 của Bộ Tư pháp về tình hình công tác tư pháp năm 2023, đánh giá kết quả công tác đến giữa nhiệm kỳ; định hướng nhiệm vụ công tác tư pháp đến hết nhiệm kỳ và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2024.
3. Bộ Tư pháp (2023). Báo cáo số 09/BC-BTP ngày 06/01/2023 về tổng hợp kết quả rà soát các thông tư đang còn hiệu lực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ.
4. Hiện nay, theo Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi), Bộ Tư pháp đề nghị sửa đổi theo hướng phòng tư pháp cấp huyện, UBND cấp xã không chứng thực hợp đồng, giao dịch nữa mà chuyển giao về cho tổ chức hành nghề công chứng.
5. Bộ Tư pháp (2010). Công văn số 1213/BTP- BTTP ngày 24/4/2010 về việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch sang tổ chức hành nghề công chứng (văn bản này liên quan đến Luật Đất đai năm 2013, 2024, Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP).
6. Bộ Tư pháp (2010). Công văn số 1213/BTP- BTTP ngày 24/4/2010 về việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch sang tổ chức hành nghề công chứng (hiện đã có 52 tỉnh thành có quyết định chuyển giao thẩm quyền này).
7. Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre đã kiểm tra theo thẩm quyền 39 văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện; tự kiểm tra 37 văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh.
8. Bộ Công an (2024). Thông tư số 46/2024/TT-BCA ngày 30/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 67/2019/TT-BCA ngày 28/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về thực hiện dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2022). Báo cáo 10 năm (2012 – 2022) phòng, chống tham nhũng.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2023). Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
3. Bộ Chính trị (2021). Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
4. Chính phủ (2023). Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
5. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
6. Quốc hội (2018). Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.