Yêu cầu đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Trần Văn Rỡ Em
Học viện Hải quân

(Quanlynhanuoc.vn) – Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, khó lường, tình hình Biển Đông ngày càng phức tạp, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định của khu vực hiện nay, đòi hỏi Hải quân nhân dân Việt Nam phải dự báo đúng, đánh giá chính xác tình hình thực tế và triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp, kịp thời. Triển khai hoạt động đối ngoại quốc phòng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và bối cảnh hiện nay góp phần xây dựng môi trường hợp tác quốc tế hòa bình, cùng phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Từ khóa: Đối ngoại quốc phòng; chủ quyền biển, đảo; Hải quân nhân dân Việt Nam; yêu cầu; bối cảnh hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Đối ngoại quốc phòng của của Hải quân nhân dân Việt Nam là một bộ phận của đối ngoại quốc phòng Việt Nam, bao gồm tổng thể các hoạt động của các tổ chức, các lực lượng trong Quân chủng Hải quân tham mưu, phối hợp, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội theo chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần củng cố, tăng cường, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển để xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam có vai trò rất quan trọng góp phần tạo dựng môi trường hòa bình trên biển, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau; giảm thiểu bất đồng, đối đầu trong giải quyết các vấn đề nhạy cảm, các “điểm nóng”, kiểm soát nguy cơ xung đột trên biển; tạo dựng và mở ra các hướng hợp tác mới. Đồng thời, tăng cường hợp tác, hiện đại hóa lực lượng, trang bị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, góp phần nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Quân chủng Hải quân, Quân đội và đất nước trên trường quốc tế.

2. Thực trạng đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Tình hình thế giới và các khu vực đang diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, Việt Nam đang chịu sự tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới khi các cường quốc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Các thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên gay gắt. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm hình thành ngày càng rõ nét, cạnh tranh quyền lực và điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất là trong mối quan hệ tam giác giữa Mỹ – Trung Quốc – Nga. Những bất đồng về lợi ích, cạnh tranh quyết liệt giữa các nước, không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh cho khu vực. Đảng ta nhận định: “Đông Nam Á… khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”1.

Đặc biệt, trên Biển Đông, Đảng nhận định: “Tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định trong khu vực và môi trường đầu tư phát triển”2. Thời gian qua, trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm đối ngoại và hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng bám sát đặc điểm, nhiệm vụ được giao, Quân chủng Hải quân chủ động xác định kế hoạch, lộ trình công tác đối ngoại trong từng giai đoạn, từng năm để cụ thể và triển khai thực hiện bằng nhiều biện pháp khoa học, phù hợp. Quân chủng đã làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng trên hướng biển; tham mưu về đối sách, phương án xử trí kịp thời, chính xác, hiệu quả các tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định trên biển để phát triển đất nước.

Hiện nay, Hải quân nhân dân Việt Nam đã thiết lập, duy trì quan hệ song phương với hải quân gần 50 nước, trong đó có các cường quốc hải quân thế giới và tích cực, chủ động hội nhập khu vực, quốc tế, thông qua các diễn đàn, cơ chế hợp tác hải quân đa quốc gia. Nhiều hoạt động đối ngoại, quan hệ hợp tác với hải quân các nước được Quân chủng triển khai với tần suất cao, tạo dấu ấn quan trọng, trở thành điểm sáng trong công tác đối ngoại quốc phòng của Quân đội và Nhà nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong hoạt động đối ngoại của Hải quân nhân dân Việt Nam, đó là tính dự báo, nắm bắt tình hình, phát hiện từ sớm, từ xa trên biển, có thời điểm chưa loại trừ được yếu tố bất ngờ, nhất là trong các tình huống phức tạp; ngoài ra, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác chuyên trách đối ngoại quốc phòng của Quân chủng còn chưa cao, rất hiếm cán bộ vừa có trình độ chuyên môn vừa có khả năng ngoại ngữ, sự am hiểu văn hóa, phong tục, tập quán…; nội dung, hình thức quan hệ hợp tác quốc phòng với hải quân các nước trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực ASEAN chưa thật phong phú đa dạng. Trong đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức, tác động không thuận lợi như cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn; ý đồ và toan tính chiến lược của các nước lớn tạo ra không ít trở ngại; lợi dụng toàn cầu hóa, các thế lực thù địch phản động, tuyên truyền chống phá, gây khó khăn cho Việt Nam trong công tác bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển và duy trì quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực, nhất là các nước có vùng biển liền kề. 

Từ thực trạng nêu trên có thể thấy những khó khăn, bất cập trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau làm hạn chế đến hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng Hải quân nhân dân Việt Nam. Do vậy, khẳng định rõ hơn, đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam đã và đang phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.

3. Một số yêu cầu đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòngvề đối ngoại quốc phòng.

Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu, bảo đảm đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam luôn đi đúng hướng, mục tiêu, nội dung, hình thức phù hợp thực tiễn. Phải tập trung quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán, hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Quân chủng Hải quân như: Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 34-NQ/TW ngày 09/01/2023 của Bộ Chính trị về “Một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”; Kết luận số 53-KL/TW ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”; Nghị định số 22/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 của Chính phủ quy định về đối ngoại quốc phòng; Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013, của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và ĐNQP đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 – Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. 

Để thực hiện tốt yêu cầu này Hải quân nhân dân Việt Nam phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp trong tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân đội những chủ trương, giải pháp quan hệ quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Không ngừng đổi mới hình thức, biện pháp giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ Hải quân về mục tiêu, quan điểm, phương châm hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Đảng, Nhà nước, Quân đội; thấu triệt trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”; kiên định về nguyên tắc nhưng phải khéo léo, mềm dẻo, linh hoạt ứng xử trong quan hệ quốc tế, nhất xử lý các mối quan hệ trên biển với hải quân các nước, góp phần giữ vững môi trường biển hòa bình, ổn định ở khu vực.

Hai là, phải tuân thủ nhất quán quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc, bám sát phương châm đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quân đội trong đối ngoại quốc phòng. 

Với tính chất nhạy cảm của “quốc phòng”, nhằm phòng thủ, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ gắn liền với chiến lược bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam phải tuân thủ quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc, bám sát phương châm đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quân đội. Trước hết, các lực lượng của Hải quân nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng phải được giáo dục, tuyên truyền nhận thức sâu sắc và tuân thủ quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”3

Bên cạnh đó, cần tuân thủ Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); phải luôn đặt lợi ích của quốc gia – dân tôc lên trên hết, cho dù gặp điều kiện, hoàn cảnh khó khăn, phức tạp đến mức nào cũng quyết tâm thực hiện bằng được. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới”4

Về nguyên tắc, cần quán triệt và tuân thủ đúng nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm của chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Trong xử lý tình huống đối ngoại quốc phòng cần ba tránh: “tránh bị cô lập; tránh xung đột; tránh đối đầu”. 

Từ nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm của Đảng, Nhà nước ta, đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc cụ thể như: tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ; hợp tác và hòa bình; chủ động phòng ngừa và ứng phó với các hiểm họa an ninh biển; tuân thủ nguyên tắc chính sách quốc phòng của Nhà nước; giữ gìn và phát triển quan hệ với hải quân của các quốc gia khác. Những nguyên tắc này giúp định hướng cho mọi hoạt động đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam, đảm bảo vai trò và vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế và khu vực.

Về phương châm đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam: “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, củng cố nền quốc phòng toàn dân trên biển. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, trong đó hợp tác là chính bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quân đội, đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam cần chủ động, tích cực nghiên cứu, dự báo đúng, trúng tình hình trên thế giới, khu vực, trên Biển Đông; tích cực, chủ động, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng những vấn đề chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Ba là, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng song phương và đa phương bền vững, có chiều sâu, thực chất và hiệu quả.

Để đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam thật sự trở thành công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực cho mục tiêu bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng và quan hệ quốc tế song phương và đa phương bền vững có chiều sâu, thực chất và hiệu quả. Đảng ủy Quân chủng Hải quân đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo nêu rõ: “công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân đã được triển khai toàn diện song phương và đa phương đạt được nhiều kết quả tích cực…, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc”6. Trên cơ sở hợp tác quốc phòng song phương với hải quân các nước có biên giới liền kề, hải quân các nước ASEAN, hải quân các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, Hải quân nhân dân Việt Nam cần có nhiều sáng kiến mới, cách làm hay, nhất là đối với các nước láng giềng, “xử lý linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn có lợi ích trên Biển Đông”. 

Tập trung nghiên cứu, phát triển đa dạng hóa nội dung, hình thức hợp tác trong từng cơ chế đã ký kết; thiết lập thêm các lĩnh vực, cơ chế hợp tác mới, có trọng tâm, trọng điểm, nhất là về giáo dục – đào tạo, khoa học kỹ thuật, chia sẻ thông tin, cứu hộ cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, y học hải quân, bảo vệ môi trường biển… Mở rộng giao lưu từ cấp lữ đoàn đến cấp vùng hải quân, Học viện Hải quân của Việt Nam với các đơn vị, nhà trường tương ứng với hải quân các nước; tăng cường giao lưu sĩ quan trẻ hải quân để hai bên có cơ hội hiểu biết, chia sẻ, nâng cao nhận thức về văn hóa, truyền thống đất nước, con người nói chung và hải quân mỗi nước nói riêng, mở ra các cấp độ và hình thức quan hệ hợp tác mới.

Nhằm xây dựng nhận thức chung, lòng tin, giữ vững ổn định chính trị, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quân đội các nước đối với việc xây dựng quân đội và củng cố nền quốc phòng Việt Nam, đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; Sách trắng Quốc phòng Việt Nam nêu rõ: “Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”7

Tiếp tục mở rộng và tăng cường hội nhập, chia sẻ thông tin, nâng cao khả năng phối hợp, chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động” đóng góp xây dựng, định hình “luật chơi chung”, sẵn sàng đảm nhận và chủ trì thành công các hoạt động hợp tác thực chất cùng hải quân các nước trong khu vực và trên thế giới. Đề xuất và thực hiện tốt những sáng kiến đồng thuận tại các diễn đàn đa phương, nhất là trong khuôn khổ ASEAN; chủ động, sáng tạo trong tham gia một số hoạt động diễn tập đa phương trên các lĩnh vực nhân đạo, như: khắc phục thảm họa, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên biển. Đồng thời, tham gia các Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN, duyệt binh Hàng hải quốc tế, diễn tập Hải quân các nước ASEAN, hội thao Army Games thế giới, hội thảo an ninh hàng hải quốc tế và các hoạt động bên lề khác… Qua đó, Hải quân nhân dân Việt Nam có cơ hội quảng bá hình ảnh, đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; góp phần nâng cao hơn nữa vị thế, vai trò, uy tín của đất nước, Quân đội và Hải quân nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Bốn là, dự báo đúng, đánh giá chính xác tình hình thế giới, khu vực và trên Biển Đông

Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới và khu vực, nhất là lợi ích của quốc gia dân tộc luôn gắn liền với Biển Đông. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Phải chú ý đến tình hình thế giới, vì nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”8. Với vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, Việt Nam là “cầu nối” giữa các nước ở khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, có tuyến hàng hải quốc tế quan trọng bậc nhất thế giới đi qua Biển Đông. Do đó, khi tình hình thế giới, khu vực, trên Biển Đông có sự biến động đều trực tiếp tác động đến tình hình an ninh chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng của Việt Nam. Về bản chất đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam là cách ứng xử với hải quân các nước nhằm thực hiện tốt công cuộc phòng thủ đất nước từ bên trong, thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” và góp phần củng cố sức mạnh quốc phòng. Do đó, để đối ngoại quốc phòng của Hải quân nhân dân Việt Nam thật sự hiệu quả, đi đúng hướng, bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia – dân tộc, không bị động, bất ngờ, luôn giành thế thể chủ động phải dự báo đúng, đánh giá chính xác về tình hình thế giới, khu vực, nhất là các động thái các quốc gia trên Biển Đông; dự kiến được xu hướng các bên liên quan, đặc biệt là các nước lớn; rút ra bản chất của từng hoạt động để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng những chủ trương, giải pháp, đối sách chiến lược phù hợp, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. 

Để thực hiện tốt việc dự báo đúng, đánh giá chính xác tình hình thế giới, khu vực và trên Biển Đông cần phát huy tốt vai trò của lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy, cơ quan tham mưu các cấp ở các đơn vị trong Quân chủng Hải quân. Đồng thời cần bám sát đường lối đối ngoại của Đảng, chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của cấp trên, tình hình nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phạm vi, nội dung dự báo, quy chế bảo mật và phổ biến thông tin. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại quốc phòng cả về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là kỹ năng lập luận dự báo, kỹ năng phân tích, xử lý thông tin.

4. Kết luận

Trước dòng chảy biến động không ngừng của thế giới, khu vực và trên Biển Đông, Hải quân nhân dân Việt Nam có vai trò rất quan trọng, luôn là lực lượng nòng cốt với các hoạt động thiết thực, hiệu quả, trực tiếp tham mưu, phối hợp, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương với hải quân các nước trong khu vực và thế giới, không ngừng xây dựng, củng cố, tăng cường môi trường hòa bình, tin cậy, hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau, góp phần quan trọng trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa.

Chú thích:
1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 107, 88, 33, 101.
5, 7. Bộ Quốc phòng (2019). Quốc phòng Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27, 265.
6. Đảng ủy Quân chủng Hải quân (2013). Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 265.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Phú Trọng (2023). Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới.https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/03/19/phat-trien-kinh-te-bien-gan-voi-quoc-phong-an-ninh-doi-ngoai-trong-tinh-hinh-moi/