Một số kết quả cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng

ThS. NCS. Nguyễn Thị Yến
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nội dung này được đặc biệt quan tâm lãnh đạo và đẩy mạnh thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội XIII ở tất cả các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương. Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước đã ban hành chương trình, kế hoạch và triển khai mạnh mẽ trong những năm qua. Khái quát về những kết quả này có ý nghĩa quan trọng để tăng cường lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới, góp phần bổ sung cơ sở thực tiễn, tiến tới sơ kết 5 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ.

Từ khóa: Cải cách hành chính, chương trình tổng thể, kết quả, đồng bằng sông Hồng.

1. Đặt vấn đề

Cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng là hoạt động của các cơ quan hành chính thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp của tỉnh dưới sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính nhà nước tỉnh và sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức có liên quan, doanh nghiệp và người dân nhằm làm cho bộ máy hành pháp từ tỉnh đến cấp xã hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ Nhân dân, doanh nghiệp tốt hơn. 

Hoạt động cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh thực hiện bởi UBND tỉnh; Ban Chỉ đạo cải cách hành chính nhà nước tỉnh với vai trò là chủ thể chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính nhà nước ở tỉnh. Lực lượng trực tiếp thực hiện cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng là các cơ quan chuyên môn, cán bộ, công chức thuộc UBND tỉnh, cấp huyện; UBND cấp huyện, cấp xã; cán bộ, công chức cấp xã. Lực lượng tham gia thực hiện cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Các tổ chức này tham gia vào thực hiện những nội dung của cải cách hành chính nhà nước của tỉnh; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội thực hiện việc phản biện xã hội đối với các chủ trương, nghị quyết, quyết định chỉ thị, kết luận của UBND tỉnh về cải cách hành chính nhà nước trước khi ban hành; giám sát hoạt động cải cách hành chính nhà nước của các cơ quan, cán bộ công nhức nhà nước ở các cơ quan hành chính của UBND, tỉnh, cấp huyện và UBND cấp xã. 

2. Những kết quả đạt được

Từ khi triển khai đánh giá cải cách hành chính thông qua chỉ số cải cách hành chính mang tính định lượng (PAR INDEX) và “gắn kết công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành và địa phương; tăng cường trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính” theo chỉ đạo của Chính phủ từ năm 2016, cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng đã được các tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được những kết quả tích cực, nổi bật trên các nội dung, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cải cách thể chế

Chất lượng công tác xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở các tỉnh được cải thiện. Số lượng văn bản sau rà soát phát hiện sai, trái thẩm quyền giảm đáng kể. Công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng hơn, đơn cử như trong năm 2022, Sở Tư pháp Hải Dương và các Hội đồng thẩm định do Sở thành lập tiến hành thẩm định 45 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, tham gia ý kiến 235 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính khác1.

Công tác tổ chức thi hành, theo dõi thi hành pháp luật, rà soát văn bản quy phạm pháp luật đã tiếp tục được tăng cường. Thay vì ban hành nhiều văn bản, các cấp chính quyền ở tỉnh đã tập trung vào việc tổ chức thi hành và rà soát đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật. So sánh giai đoạn 2016 – 2020 với giai đoạn 2011 – 2015 cho thấy, số lượng văn bản của chính quyền địa phương giảm, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã khi mà các cấp này tập trung vào việc triển khai tổ chức thi hành pháp luật theo hướng đảm bảo quy trình, thủ tục, thời hạn; công khai, minh bạch và tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan2. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được quan tâm; ngoài ra, trên các cổng thông tin điện tử ở các tỉnh, các nền tảng mạng xã hội như Zalo, Facebook, cũng được khai thác phục vụ khá hiệu quả. Số lượng các bản tin về cải cách hành chính ngày càng nhiều hơn. Nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân địa phương về cải cách hành chính đã được nâng lên rõ rệt so với các giai đoạn trước.

Thứ hai, về cải cách thủ tục hành chính.

Việc cắt giảm và đơn giản hóa các thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh và có nhiều đổi mới.Đa số các tỉnh đều coi đây là nội dung trọng tâm của cải cách hành chính. Do đó, lĩnh vực này đã có rất nhiều chuyển biến tích cực, cải tiến, đổi mới, xuất hiện những cách làm mới, hiệu quả. Từ năm 2016 đến nay việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các quy định về kiểm soát thủ tục hành chính được cơ quan tư pháp tỉnh, huyện, xã thực hiện các tỉnh tích cực. Nếu như giai đoạn trước 2016 còn thiếu quy định và chậm hướng dẫn, công bố, công khai thủ tục hành chính, thì từ năm 2017 – 2020, hầu hết các tỉnh đều tập trung hoàn thiện các quy định và công bố tối đa các thủ tục hành chính được ban hành. Từ năm 2020 đến nay, khi các quy định ổn định hơn, số lượng hồ sơ, thủ tục hành chính bãi bỏ, cắt giảm nhiều thì số lượng thủ tục hành chính công bố, công khai thêm đã giảm.

Các thủ tục hành chính, thành phần thủ tục trong hồ sơ, thời gian giải quyết thủ tục hành chính giảm mạnh.Nhất là các hồ sơ, thủ tục mà trước đó thường gây bức xúc kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người dân, doanh nghiệp, như đất đai, kinh doanh, xây dựng. Việc kiểm soát ban hành các quy định thủ tục hành chính mới hướng tới bảo đảm đơn giản, rõ quy trình, dễ hiểu, dễ thực hiện. Hầu hết các thủ tục hành chính được các bộ, ngành, địa phương, từng bước chuẩn hóa, công bố, niêm yết, công khai tại nơi tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính hoặc trên cổng thông tin điện tử của tỉnh và trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính theo quy định. Cách thức này đã tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức truy cập tìm hiểu, thực hiện thuận tiện, chính xác hơn, giảm thời gian, chi phí đi lại.

Các quy định về thủ tục hành chính, thành phần hồ sơ không hợp lý được xem xét cắt giảm, tăng cường các lớp tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ về kiểm soát, đánh giá các thủ tục hành chính. Hầu hết các địa phương đều thực hiện nghiêm các quy định về kiểm soát thủ tục hành chính, không ban hành thủ tục hành chính trái thẩm quyền và thường xuyên rà soát, kiến nghị, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính chưa phù hợp. Từ năm 2023, Hải Dương đã tiến hành đánh giá, thẩm định quy định thủ tục hành chính, không ban hành văn bản có quy định thủ tục hành chính hoặc bộ phận cấu thành thủ tục hành chính. Các sở, ngành của tỉnh còn thực hiện đánh giá chất lượng biểu mẫu, trong đó có 742 biểu mẫu đã được đánh giá chất lượng, 583 thủ tục đề nghị giữ nguyên, 157 thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung3. Đây là bước tiến mới, khâu quan trọng để đổi mới cải cách thủ tục hành chính, tiến tới hiệu quả thực chất, đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính và sự mong đợi của người dân trong bối cảnh mới.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông và các Trung tâm hành chính công ở các tỉnh tiếp tục phát huy hiệu quả đối với việc phục vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công theo hướng tối giản, công khai. Với chủ trương và kết quả đạt được từ những giai đoạn trước, từ 2016 đến nay, cơ chế này tiếp tục được triển khai và phát huy tác dụng, xuất hiện những mô hình hay, cách làm sáng tạo. Đơn cử, như ở Thái Bình mạnh dạn xây dựng, hoàn thành và đưa vào hoạt động 8 mô hình Bộ phận Một cửa giải quyết thủ tục hành chính nội bộ tại Công an 8 huyện, thành phố.

Theo Báo cáo cải cách hành chính của tỉnh, đến cuối năm 2023, Công an tỉnh đã triển khai hoạt động hiệu quả 13 mô hình Bộ phận Một cửa… để giải quyết đối với 250 thủ tục hành chính, trong đó có 16 thủ tục được triển khai nộp hồ sơ hoàn toàn qua mạng nội bộ và 10 thủ tục hành chính triển khai nộp hồ sơ và kết quả hoàn toàn qua mạng nội bộ4. Tất cả các tỉnh hiện nay đã có Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung cấp tỉnh và tiếp tục triển khai đến cấp huyện. Các Trung tâm đi vào hoạt động bước đầu đạt được một số kết quả tích cực, tạo sự chuyển biến trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông có nhiều đổi mới tích cực theo hướng công khai, cập nhật thủ tục hành chính được thực hiện dưới nhiều hình thức.

Kết quả thực hiện nội dung này cho thấy, Hải Dương có 100% hồ sơ thủ tục hành chính được cập nhật vào hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh và công khai tiến độ giải quyết trên Cổng dịch vụ công tỉnh5. Năm 2023, toàn tỉnh Thái Bình tiếp nhận và giải quyết xong được 95/95 phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và hành vi hành chính (đạt tỷ lệ 100%)6. Ở Hà Nam, từ ngày 08/12/2022 – 07/12/2023, Sở Tư pháp đã nghiên cứu, tham vấn giúp UBND tỉnh, các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố đối với 197 lượt các vụ việc phức tạp liên quan đến khiếu nại, tố cáo, cơ chế, chính sách của tỉnh, qua đó góp phần khắc phục những bất cập tồn tại, hạn chế trong công tác tư pháp7.

Các tỉnh đều có sự đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân qua nhiều kênh, hình thức đa dạng, phong phú. Một số tỉnh đã tăng cường đầu tư phần mềm, trang thiết bị để phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp khi làm thủ tục hành chính trực tiếp hay trực tuyến. Trong đó Hà Nam là một tỉnh vươn lên nhóm dẫn đầu trong vùng và cả nước về chỉ số này (+19 bậc so với năm 2021); Hải Dương cũng là tỉnh có chỉ số thành phần cao (tăng +10.95%)8.

Kết quả chỉ số cải cách thủ tục hành chính năm 2023 của các tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng trên 63 tỉnh, thành phố9. Năm 2022, các tỉnh đặt trọng tâm vào nhiệm vụ rà soát, tăng cường các biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số để nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Số lượng, chất lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 cung cấp cho người dân, doanh nghiệp được nâng cao, với số lượng hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến mức độ 3,4 ngày càng tăng. Số lượng dịch vụ công trực tuyến toàn tỉnh đang áp dụng tại tỉnh Thái Bình là 979; số dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến toàn tỉnh là 582 (đạt 37,3%)… Tỷ lệ thủ tục hành chính được tích hợp, triển khai thanh toán trực tuyến đạt 100%.

Các thủ tục hành chính sau khi được công bố, công khai ở trụ sở cơ quan hành chính và Cổng dịch vụ công quốc gia; các hình thức tiếp nhận phản ánh, kiến nghị ngày càng đa dạng, phong phú hơn, không chỉ trực tiếp ở bộ phận một cửa mà còn qua Zalo, Cổng thông tin điện tử, số điện thoại đường dây nóng (hotline)… Đồng thời các lớp tập huấn kỹ năng, phương pháp xử lý phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định và thủ tục hành chính cho cán bộ, công chức trên môi trường số được quan tâm kịp thời.

Thứ ba, về cải cách tổ chức bộ máy.

Các tỉnh đã tập trung rà soát và xây dựng các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị chuyên môn cấp tỉnh, huyện và ủy ban nhân dân cấp xã đảm bảo cho các cơ quan vận hành tốt nhất. Từ năm 2021 – 2023, các tỉnh đã đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị hành chính và sự nghiệp, đồng thời kiện toàn chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện trên cơ sở các quy định mới của Chính phủ và các hướng dẫn của các bộ, ngành, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp ở các tỉnh.

Đến nay các tỉnh đã hoàn thành việc ban hành chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan sau khi điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn bộ máy theo hướng dẫn tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt tỷ lệ 100%.

Cơ cấu tổ chức, bộ máy các cơ quan chuyên môn UBND các cấp và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được sắp xếp, kiện toàn gọn hơn và cơ bản theo đúng quy định, bước đầu đã tính đến đặc thù của đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị. Biên chế công chức trong hệ thống chính trị giảm đáng kể. Từ năm 2015 – 2020, tỉnh Vĩnh Phúc đã giảm 1.714 chỉ tiêu trong đó (công chức giảm 155 chỉ tiêu, đạt 8,61% so với Bộ Nội vụ giao năm 2015; biên chế sự nghiệp giảm 1.532 chỉ tiêu, đạt 7,54%; hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP giảm 27 chỉ tiêu, đạt 5,99% so với năm 2015)10.

Kết quả sau sắp xếp bộ máy ở Nam Định cuối năm 2020, số đầu mối các đơn vị sự nghiệp công lập giảm là 199 đơn vị vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đã đề ra (2 đơn vị); giảm số lượng số đầu mối cấp phòng, khoa trong đơn vị sự nghiệp là 101. Số biên chế giảm do tổ chức lại, giải thể và chuyển sang đơn vị tự chủ đã giảm được là 312 biên chế11.  

Các tỉnh đã thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực đối với cấp huyện, cấp xã. Tiếp tục công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Thực hiện Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Xây dựng nền hành chính công vụ minh bạch, liêm chính; ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ tư, về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách chế độ công vụ.

Các tỉnh đã quan tâm hơn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, triển khai các phương pháp đánh giá dựa trên kết quả công việc, giúp xác định rõ năng lực của cán bộ, công chức. Tiêu biểu cho công tác này là Quảng Ninh và Vĩnh Phúc. Tổng số lớp đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước của toàn tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện được theo kế hoạch thực hiện Đề án 293 giai đoạn 2015 – 2020 là 702 lớp, với tổng số 39.577 lượt học viên12; hơn 8.000 lượt cán bộ có trình độ lý luận chính trị (trong đó, cử nhân 80 lượt; cao cấp 1.500 lượt; trung cấp 6.000 lượt; sơ cấp 500 lượt13. Đây là những kiến thức bổ trợ cần thiết đối với cán bộ, công chức hành chính trong thực thi công vụ.

Cùng với những việc nêu trên, các tỉnh đã dần coi trọng việc khuyến khích sáng tạo thông qua cải cách cơ chế khen thưởng để khuyến khích những cán bộ có sáng kiến, đóng góp tích cực cho công việc. Kết quả sau đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng chuyên môn cho cán bộ, công chức và áp dụng tiêu chuẩn trong tuyển dụng và đánh giá cán bộ, công chức để bảo đảm chất lượng đầu vào và phù hợp với yêu cầu của từng vị trí. Cải cách quy trình tuyển dụng theo hướng công khai, minh bạch về thông tin, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi ứng viên, giảm thiểu tình trạng “chạy tuyển dụng”. Đẩy mạnh áp dụng hình thức thi tuyển kể cả đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý.

Đến nay, năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức ở các tỉnh nhìn chung được nâng lên một bước, văn hóa công vụ, công tác tuyển dụng có sự chuyển biến. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở các tỉnh cơ bản đảm bảo về số lượng, chất lượng, cơ cấu giữa các độ tuổi và có tính kế thừa;đa số cán bộ, công chức cấp xã được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng. Chính sách, pháp luật của nhà nước, có ý thức tổ chức kỷ luật, gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Thái độ giao tiếp của đa số cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ ở cấp xã đối với các tổ chức, công dân đến liên hệ công việc đã có chuyển biến rõ rệt, tận tình, trực tiếp chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với nhân dân ở cơ sở.

Thứ năm, về cải cách tài chính công

Cải cách tài chính công ở các tỉnh của vùng đồng bằng sông Hồng đã có những nỗ lực nhất định. Các tỉnh đã áp dụng các phương pháp lập và thực hiện ngân sách theo chương trình, dự án, giúp cải thiện việc phân bổ nguồn lực và nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách. Nhiều tỉnh đã triển khai các hệ thống công khai ngân sách, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin. Một số tỉnh đã áp dụng các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế, hạ tầng nhằm huy động nguồn lực từ ngoài ngân sách. Có thể khằng định, tăng cường minh bạch và công khai và đổi mới cơ chế tài chính là những thành công, là nỗ lực và mục tiêu hướng tới của cải cách tài chính công các tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng.

Việc thực hiện các quy định về quản lý tài chính, ngân sách tại tỉnh được triển khai tương đối kịp thời và nghiêm túc. Tỷ lệ thu và chi đều tăng so với dự toán ngân sách được Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính và Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh giao. Đơn cử như ở Hải Dương: “Năm 2022, tổng thu toàn tỉnh tổng thu toàn tỉnh năm 2022 ước đạt 19.314,870 tỷ đồng; đạt 130% so với dự toán giao, trong đó: thu ước đạt 16.424 tỷ đồng đạt 133% dự đoán giao tổng chi ngân sách địa phương năm 2021 ước đạt 19.817,068 tỷ đồng đạt 128% dự toán trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 6.182,582 đồng bằng 148% dự toán14. Ở Hưng Yên, tiến độ kết quả thực hiện thu ngân sách nhà nước theo kế hoạch giao dự toán đầu năm 2022 là 19.525 tỷ đồng, tính đến ngày 8/12/2022, thu được 50.048,6 tỷ đồng, đạt 256,3% kế hoạch giao. Nguồn thu chủ yếu là tiền đất 33.347 tỷ đồng, đạt 463,2%. Tổng chi ngân sách nhà nước dự toán 16.751 tỷ đồng, tính đến hết ngày 8/12/2022 là 13.636,8 tỷ đồng, đạt 81,4% so với dự toán giao15.

Đến nay, các tỉnh cơ bản đã thực hiện việc đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước và cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính. UBND các tỉnh đều đã chỉ đạo Sở Tài chính và các ngành, các cấp triển khai hướng dẫn thực hiện kịp thời các nghị định của Chính phủ, như: Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Năm 2022, vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số cải cách tài chính công cao nhất so với các vùng trong cả nước (86.34%), thấp nhất là khu vực Tây Nguyên (78.05%); Quảng Ninh xếp thứ 4 cả nước và dẫn đầu các tỉnh trong vùng với điểm số rất cao (91.75%); tiếp đến là Hà Nam (86,96%)16.

Thứ sáu, về hiện đại hóa hành chính, xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số.

Từ năm 2016 – 2020, là giai đoạn các tỉnh tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế về xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, hiện đại hóa hành chính. Sau năm 2020 đến nay, các tỉnh đẩy mạnh, coi trọng ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng, phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số. Tại các UBND tỉnh đã có những chuyển biến tích cực, nhất là trong hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Số lượng dịch vụ công trực tuyến tăng, việc duy trì cung cấp dịch vụ công trực tuyến, xử lý hồ sơ qua mạng tại một số sở, ban, ngành, địa phương ổn định đã thu hút được sự tham gia của người dân, doanh nghiệp; số dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ trên mạng ngày càng tăng cao.

Đến nay 100% các tỉnh, huyện đã có cổng dịch vụ công trực tuyến và đồng bộ hóa thông tin. Nhiều tỉnh đã xây dựng cổng dịch vụ công trực tuyến, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin và thực hiện các thủ tục hành chính mọi lúc, mọi nơi. Các thông tin về thủ tục hành chính, quy trình giải quyết được công khai, tạo sự minh bạch và giảm thiểu tham nhũng. Các tỉnh cũng thực hiện mạnh mẽ việc chuyển đổi số hồ sơ. Nhiều tỉnh đã số hóa được số lượng lớn hồ sơ, tài liệu hành chính, giúp tiết kiệm chi phí, quản lý thông tin thông minh và hiệu quả hơn, dễ dàng tra cứu hơn và giúp cho chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng hơn.

Mô hình một cửa điện tử, chữ ký số cho cả cán bộ, công chức và người dân được đẩy mạnh và coi trọng. Các tỉnh đã có những sáng kiến hiệu quả áp dụng vào thực tiễn để cải cách thủ tục hành chính, điển hình nhất là thực hiện quy trình “5 tại chỗ, 5 bước trên môi trường mạng”, giúp cho việc giải quyết thủ tục nhanh chóng, đơn giản hóa, giảm thời gian chờ đợi cho người dân, tăng cường sự hài lòng. Nhìn chung, các tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đã có những bước tiến đáng kể trong việc xây dựng chính quyền điện tử và chính quyền số. Những kết quả này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý hành chính mà còn cải thiện chất lượng dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.

3. Kết luận

Cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng là lĩnh vực rất quan trọng tác động, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, kết quả tích cực của cải cách hành chính nhà nước, tạo thuận lợi và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương, giúp Nhân dân củng cố niềm tin, cổ vũ và ủng hộ công cuộc này đối với tổ chức đảng và chính quyền địa phương, góp phần tinh gọn bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, các dịch vụ công, xây dựng chính quyền các cấp ở tỉnh vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Với những tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng đồng bằng sông Hồng, công tác cải cách hành chính nhà nước ở các tỉnh có thể đạt được nhiều kết quả tốt hơn nữa nếu như có những giải pháp hệ thống, toàn diện và giải pháp đột phá; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thường xuyên, liên tục của các cấp ủy và chính quyền các cấp.

Chú thích:
1, 3, 14. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2022). Báo cáo số 140/BC-UBND ngày 20/12/2022 về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2022 và một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2023 tỉnh Hải Dương.
2, 8, 9. Bộ Nội vụ (2022). Báo cáo chỉ số cải cách hành chính các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Par Index 2022).
4, 6. Sở Nội vụ Tỉnh Thái Bình (2023). Báo cáo kết quả công tác cải cách hành chính năm 2023, nhiệm vụ trọng tâm năm 2024.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2023). Báo cáo số 227/BC-UBND ngày 20/12/2023 về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2023 và một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2024 tỉnh Hải Dương.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2023). Báo cáo số 238/BC-UBND ngày 26/12/2022 về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023.
10. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2022). Báo cáo số 388/BC-UBND ngày 20/12/2022 về kết quả công tác cải cách hành chính tỉnh Vĩnh Phúc năm 2022, phương hướng, nhiệm vụ năm 2023.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2022). Báo cáo số 359/BC-UBND ngày 20/12/2022 về công tác cải cách hành chính tỉnh Nam Định năm 2022.
12, 13. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020). Báo cáo số 116/BC-UBND ngày 24/6/2020 về tổng kết công tác cải cách hành chính tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2020 theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2030.
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2022). Báo cáo số 181/BC-UBND ngày 20/12/2022 về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2022
16. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2023). Báo cáo số 358/BC-UBND ngày 19/12/2022 về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2024.