Vận dụng quan điểm đổi mới sáng tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa Sóc Trăng phát triển nhanh và bền vững

Nguyễn Thành Duy
Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Sóc Trăng

(Quanlynhanuoc.vn) – Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nêu rõ đổi mới, sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược phát triển trong giai đoạn 2021 – 2025 và là động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước trước bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, tỉnh Sóc Trăng đã vận dụng có hiệu quả quan điểm đổi mới sáng tạo để đưa Sóc Trăng phát triển. Bài viết trình bày thực trạng thực hiện và kết quả vận dụng quan điểm đổi mới, sáng tạo của Đảng ở tỉnh Sóc Trăng; đồng thời, chỉ ra những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm góp phần để tỉnh Sóc Trăng phát triển nhanh và bền vững.

Từ khóa: Đổi mới sáng tạo, quan điểm đổi mới sáng tạo, Đại hội XIII của Đảng, phát triển nhanh và bền vững, Sóc Trăng.

1. Đặt vấn đề

Sóc Trăng thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, ở cuối lưu vực sông Hậu rất thuận lợi cho giao thông thủy và bộ (cách TP. Hồ Chí Minh 231km, cách Cần Thơ 62km). Diện tích tự nhiên 3.310,03 km², xấp xỉ 1% diện tích của cả nước và 8,3% diện tích của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, nên Sóc Trăng là vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, đất đai có độ màu mỡ cao, đủ điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tổng hợp.

Phát huy những lợi thế sẵn có, trong những năm qua, kinh tế của tỉnh có bước phát triển khá nhanh và ổn định, liên tục tăng trưởng và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Năm 2021, GRDP trên địa bàn tỉnh đạt 35.415 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 1,67 lần so với năm 2010; tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2011 – 2021 là 4,76%1.

2. Đổi mới sáng tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Ở Việt Nam, nội hàm của đổi mới sáng tạo là phát triển và ứng dụng thành tựu khoa học và kỹ thuật – hình thành trên cơ sở các quan điểm về đổi mới kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và từ đó đến nay đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Tại Đại hội XIII, đổi mới sáng tạo cùng với khoa học – công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá trong chiến lược “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ”2. Đồng thời, đổi mới sáng tạo cùng với chuyển đổi số, phát triển kinh tế số đã được đề cập đến nhiều lần trong văn kiện: “Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số”3. Văn kiện cũng khẳng định nhiệm vụ: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao”4. Như vậy, tại Đại hội XIII của Đảng, đổi mới sáng tạo cùng với khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế số. Trong đó, vai trò của đổi mới sáng tạo được thể hiện trên những nội dung sau:

Một là, về hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định xây dựng thể chế, chính sách pháp luật làm cơ sở pháp lý cho đổi mới sáng tạo: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới5, Đồng thời, Văn kiện đã chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiệu trong đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ. Nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm mục tiêu”6.

Hai là, về phát triển nguồn nhân lực: Văn kiện Đại hội XIII cũng đề cập đến các chính sách để phát triển nguồn lực con người và các tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ cho đổi mới sáng tạo: “Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học – công nghệ gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân lực khoa học và công nghệ”7; “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam  rất chú trọng nguồn lực con người trong đổi mới sáng tạo, trong đó xác định một trong những đột phá chiến lược của chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam9.

Ba là, phát triển kinh tế trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số: Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo10. Nhiệm vụ đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là: “Phát triển mạnh mẽ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh11. Đồng thời, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong Đại hội XIII là: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế12.

Bốn là, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ đổi mới sáng tạo: Phát triển cơ sở hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn13. Nhiệm vụ đột phá là phát triển đồng bộ hạ tầng: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại”; “Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số”14.

3. Thực trạng đổi mới sáng tạo theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII ở Sóc Trăng

Quán triệt quan điểm của Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ XIII về đổi mới, sáng tạo, để phát huy lợi thế và tài nguyên sẵn có, tăng giá trị và sức cạnh tranh, phát triển bền vững, tỉnh Sóc Trăng đã hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đổi mới, sáng tạo, từng bước đưa tiến bộ khoa học phục vụ sản xuất và đời sống; đưa khoa học và công nghệ gắn kết chặt chẽ với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đóng góp thiết thực trong việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả sản xuất, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và trong phát triển các sản phẩm đặc thù của tỉnh; góp phần tích cực trong việc chuyển đổi mô hình kinh tế và tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Theo kết quả xếp hạng chung Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023, tỉnh Sóc Trăng đạt 31,81 điểm, xếp hạng 48/63 tỉnh, thành phố và xếp thứ 10/13 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, các kết quả đổi mới sáng tạo nổi bật của tỉnh là:

Về cơ chế, chính sách: Sóc Trăng đã quán triệt, tổ chức thực hiện Quyết định số 995/QĐ-TTg ngày 25/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Sóc Trăng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chiến lược phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, ngành khoa học và công nghệ tỉnh đã đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong thời gian tới.

Tỉnh Sóc Trăng đã tập trung triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho phát triển các mô hình hoạt động kinh tế mới dựa trên các nền tảng như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ, góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các mô hình, hoạt động kinh tế mới và kinh tế truyền thống, tập trung triển khai nghiệp vụ và giải pháp bảo đảm an ninh, an toàn và phù hợp trong cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số, phát triển hạ tầng số, cơ sở dữ liệu để khi đủ điều kiện sẵn sàng kết nối, phục vụ trên diện rộng hơn. Đồng thời, tỉnh Sóc Trăng đã đẩy mạnh việc triển khai các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ; hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tỉnh thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tinh thần Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã ban hành Quyết định số 1092/QĐ-UBND ngày 25/4/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp tỉnh Sóc Trăng đến năm 2025.

Về phát triển kinh tế số, xây dựng cơ sở hạ tầng. Sóc Trăng đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, khởi nghiệp sáng tạo. Tỉnh đã chính thức vận hành sàn thương mại điện tử và hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất kinh doanh và chủ thể OCOP15 tham gia các sàn thương mại điện tử, đưa sản phẩm OCOP của tỉnh lên sàn thương mại điện tử của tỉnh. Các doanh nghiệp của tỉnh cũng đưa sản phẩm lên các sàn giao dịch thương mại điện tử lớn khác như: Voso.vn (Viettel), Postmart (Bưu điện Việt Nam). Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh hợp tác liên kết với 11 Sàn thương mại điện tử của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh quảng bá các sản phẩm đặc sản, đặc trưng, chủ lực, sản phẩm OCOP của Sóc Trăng cũng như của các tỉnh bạn đến rộng rãi người tiêu dùng trong cả nước. Đến nay, có 90 doanh nghiệp tham gia với 244 sản phẩm trên sàn, trong 6 tháng đầu năm 2023, có 10 đơn hàng tổng giá trị 4,8 tỷ đồng16.

Đồng thời, Sóc Trăng hết sức quan tâm đến nhân lực ứng dụng công nghệ thông tin, tỉnh đã triển khai thực hiện chương trình đào tạo về công nghệ thông tin nhằm bảo đảm phục vụ hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và an toàn thông tin của tỉnh. Đến nay, hầu hết cơ quan hành chính nhà nước từ cấp tỉnh đến huyện có cán bộ chuyên trách, phụ trách hoặc kiêm nhiệm công nghệ thông tin. Tổ Công nghệ số cộng đồng tiếp tục triển khai hướng dẫn, hỗ trợ người dân tại các xã, phường, thị trấn.

Về tiến độ thực hiện 25 dịch vụ công thiết yếu của đề án 06, trong 6 tháng đầu năm 2024, hệ thống IOC tỉnh đã tiếp nhận 197.922 hồ sơ, trong đó: hồ sơ trực tuyến 168.391 hồ sơ, đạt 85,1%17. Bên cạnh đó, tỉnh Sóc Trăng luôn quan tâm đến hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Sóc Trăng đã thành lập Câu lạc bộ Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với mục đích là cầu nối các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hình thành mạng lưới khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn Tỉnh, tổ chức và hỗ trợ tổ chức các sự kiện, diễn đàn liên quan đến hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, giới thiệu và đánh giá các dự án khởi nghiệp, giới thiệu cơ hội đầu tư…

Ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Sóc Trăng đã triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào thực tế sản xuất, hỗ trợ người dân địa phương phát triển kinh tế, tăng thu nhập. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ bao gồm lĩnh vực xã hội và nhân văn tập trung vào nghiên cứu các giải pháp để bảo tồn, phát huy các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân gian; các giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử, phát triển du lịch, đã đạt được những kết quả khả quan, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Sóc Trăng có bản sắc văn hóa đặc thù.

Lĩnh vực khoa học tự nhiên tập trung vào việc ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống; thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường; chú trọng phát triển các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc trưng của tỉnh. Điển hình là năm 2021, Công trình: “Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa thơm Sóc Trăng: ST24 và ST25 giai đoạn 2008 – 2016” đã được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ đợt 6. Đây là vinh dự chung cho lúa gạo Sóc Trăng phát huy tiềm năng, thế mạnh sản xuất các giống lúa, gạo thơm đặc sản trong thời gian tới18.

Phát triển nguồn nhân lực phục vụ đổi mới, sáng tạo. Sóc Trăng hết sức chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực về khoa học, công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Tỉnh đã có nhiều chính sách, có chế để thu hút, trọng dụng nhân tài, những nhà khoa học có trình độ, kinh nghiệm nghiên cứu, nhất là trên lĩnh vực công nghệ, thông tin, như: đào tạo, tuyển chọn bố trí làm việc tại các cơ quan, đơn vị phù hợp; có các chính sách cử đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Ngoài ra, tỉnh Sóc Trăng đã quan tâm hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho doanh nghiệp, hằng năm đã tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Năm 2023, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch tổ chức hoạt động hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp năm 2023, trong đó bao gồm tổ chức 4 khóa đào tạo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên hoạt động đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng còn gặp những khó khăn, hạn chế, bất cập và nguyên nhân như:

(1) Cơ chế, chính sách trong phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn những hạn chế.

(2) Trang thiết bị, kinh phí, nhân lực vẫn còn nhiều khó khăn, ngân sách chi cho công nghệ thông tin vẫn còn thấp, chưa đáp ứng kịp nhu cầu triển khai và duy trì, phát triển đồng bộ về xây dựng chính quyền điện tử, kinh tế số, xã hội số.

(3) Ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ vẫn còn nhiều khó khăn, các công trình khoa học được nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả vào phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn còn hạn chế, chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ.

(4) Phát triển nguồn nhân chưa cùng với hạ tầng kỹ thuật chưa phát triển đồng bộ; tuy đã có bước phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa cao, thiếu cán bộ đầu đàn, chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao.

(5) Thiếu đồng bộ và chuẩn hóa hạ tầng giữa các ngành, lĩnh vực; hệ thống quản lý và khai thác dữ liệu chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, do đặc điểm địa bàn thường xuyên chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, sạt lở bờ sông, bờ biển, hạn, mặn xâm nhập sâu vào nội đồng đã tác động trực tiếp đến sản xuất, đời sống người dân trong tỉnh19.

4. Một số giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo, làm nền tảng phát triển kinh tế nhanh và bền vững tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới

Song song với quán triệt, tổ chức thực hiện Quyết định số 995/QĐ-TTg ngày 25/8/2023 và Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu của đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng là phấn đấu đến năm 2030 Sóc Trăng là tỉnh phát triển khá của vùng đồng bằng sông Cửu Long; có công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển, nông nghiệp hiện đại và bền vững; hình thành cảng biển ngoài khơi cửa Trần Đề và có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, từng bước hiện đại; có hệ thống đô thị phát triển theo hướng xanh, thông minh, bền vững; có đủ năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Do đó, Sóc Trăng tiếp tục quán triệt có hiệu quả quan điểm của Đảng về đổi mới, sáng tạo, phát huy những lợi thế sẵn có, khắc phục những khó khăn, hạn chế còn tồn tại để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của Tỉnh đã đề ra, cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả cơ chế, chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sở Khoa học và Công nghệ cần chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các văn bản quản lý nhà nước nhằm cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật về khoa học và công nghệ phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương. Các cơ quan chức năng cần quan tâm tăng cường vai trò phối hợp bằng cách thiết lập mạng lưới khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (bao gồm các chuyên gia pháp lý, doanh nghiệp và viện nghiên cứu để tham vấn trong việc xây dựng văn bản pháp luật). Bên cạnh đó, tăng cường chuyển đổi số trong việc quản lý, xử lý, lưu trữ và rà soát các quy định pháp lý để thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính.

Thứ hai, giải quyết vấn đề về nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sóc Trăng cầntăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ. Đồng thời địa phương cần thực hiện tốt hoạt động kêu gọi đầu tư, bắt đầu từ việc tạo cơ chế khuyến khích, hấp dẫn đầu tư từ các doanh nghiệp tư nhân, tổ chức trong và ngoài nước (nhất là các doanh nghiệp khoa học, công nghệ); tối ưu hóa nguồn lực hiện có như: xây dựng quỹ tài chính hợp tác công tư để tập trung kinh phí cho các dự án lớn về chuyển đổi số; áp dụng giải pháp công nghệ chi phí thấp, nguồn mở; hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế để tiếp nhận viện trợ, dự án tài trợ cho chuyển đổi số và phát triển công nghệ. Thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ thông qua các hoạt động kết nối cung – cầu sản phẩm khoa học công nghệ giữa các tổ chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước, đối tượng hướng đến là doanh nghiệp địa phương, nông dân.

Thứ ba, tăng cường ứng dụng, chuyển giao khoa học – công nghệ phát triển kinh tế – xã hội. Ngành khoa học và công nghệ tỉnh cần tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao thành tựu, tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào sản xuất và đời sống; xây dựng các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực đổi mới, làm chủ công nghệ; chia sẻ cơ sở dữ liệu các kết quả nghiên cứu, cung cấp thông tin về các sáng chế; tập trung nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện môi trường  vào sản xuất và đời sống. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sẽ tập trung: đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế của từng địa phương; phát triển mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; thực hiện các nhiệm vụ khoa học nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, chống sạt lỡ, xâm ngập mặn…

Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó chú trọng phối hợp với các trường đại học, viện nghiên cứu để xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; tổ chức các cuộc thi ý tưởng sáng tạo để phát hiện và bồi dưỡng tài năng. Ngoài ra, tỉnh cần tạo điều kiện, cơ chế đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân nhân tài; xây dựng môi trường làm việc linh hoạt, sáng tạo cho cán bộ, người lao động.

Xây dựng chiến lược, tầm nhìn dài hạn về công tác tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, trong đó chú trọng phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Đẩy mạnh phát triển nhân lực khoa học và công nghệ bao gồm việc đào tạo, đào tạo lại gắn liền với sử dụng và trọng dụng nhân tài; thực hiện tốt chính sách để nuôi dưỡng tài năng đối với cán bộ khoa học trẻ. Đồng thời, xây dựng mạng lưới hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học nước ngoài và mở rộng các chương trình đào tạo ở nước ngoài để cán bộ khoa học và công nghệ được cọ xát môi trường học thuật quốc tế và được đào tạo trong hoạt động nghiên cứu và phát triển quốc tế. Qua các hoạt động hợp tác trường, viện cần tạo lập một mạng lưới nguồn nhân lực “mềm” có chất lượng cao, sẵn sàng tham gia và đóng góp cho sự phát triển của địa phương hiệu quả.

Thứ năm, phát triển đồng bộ hạ tầng phục vụ đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội. Tỉnh cần thúc đẩy xây dựng, phát triển hạ tầng một cách đồng bộ trong đó cần chú trọng chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, xây dựng hệ thống mạng thông tin, dữ liệu hiện đại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, cần phát triển và triển khai có hiệu quả mô hình ứng dụng công nghệ số trong quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh, liên kết chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.

5. Kết luận

Qua phân tích cho thấy, tỉnh Sóc Trăng đã quán triệt thực hiện đổi mới sáng tạo theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII và đã đạt được những kết quả quan trọng trong ban hành cơ chế chính sách, xây dựng kinh tế số, ứng dụng chuyển giao khoa học – công nghệ cũng như phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, Đổi mới sáng tạo của tỉnh vẫn còn tồn tại những hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Với việc thực hiện hiệu quả các giải pháp sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Sóc Trăng, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Sóc Trăng, từ đó, góp phần giúp tỉnh Sóc Trăng phát triển nhanh và bền vững.

Chú thích:
1. Cục Thống kê tỉnh Sóc Trăng (2022). Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2021 – Ấn phẩm đặc biệt chào mừng 30 năm tái lập tỉnh (1992 – 2022). H. NXB. Thống kê.
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 140, 37, 43, 132, 141, 141, 138, 220, 115, 221, 201, 222.
15. OCOP. (One commune one product) Chương trình mỗi xã một sản phẩm.
16. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng (2023). Kỷ yếu tổng kết 30 năm ngành Khoa học và công nghệ tỉnh Sóc Trăng hình thành và phát triển (1993 – 2023).
17. Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Sóc Trăng (2024). Báo cáo kết quả thực hiện kết luận của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng ban Chỉ đạo Chuyển đổi số tỉnh Sóc Trăng và tình hình hoạt động Trung tâm IOC tỉnh Sóc Trăng (Báo cáo số 172/BC-TTTT ngày 08/7/2024).
18. Tỉnh ủy Sóc Trăng (2023). Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
19. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng (2024). Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 (Báo cáo số 22/BC-SKHCN ngày 31/01/2024).
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2021). Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.  OECD (2009). Innovation in Firms: A Microeconomic Perspectiv. https://eclass.aueb.gr/modules/document/file.pdf, truy cập ngày 18/8/2024.
3. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2023 về việc ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.
4. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 995/QĐ-TTg ngày 25/8/2023 về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Sóc Trăng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2022). Quyết định số 1092/QĐ-UBND ngày 25/4/2022 về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp tỉnh Sóc Trăng đến năm 2025.
6. Khát vọng và đổi mới, sáng tạo vì con người trong văn kiện Đại hội XIII. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/03/30/khat-vong-va-doi-moi-sang-tao-vi-con-nguoi-trong-van-kien-dai-hoi-xiii/.