Kiểm soát quyền lực trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Lê Văn Phúc
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
Phan Gia Thuận
Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Tham nhũng có thể xảy ra khi có sự thiếu giám sát hoặc kiểm tra đối với hành vi của cán bộ, công chức hoặc khi quy trình ra quyết định và thực thi chính sách không minh bạch. Việc kiểm soát quyền lực giúp hạn chế các hành vi tham nhũng, bảo đảm tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong quản lý công. Để đạt được hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, cải cách hành chính, nâng cao năng lực giám sát xã hội và sử dụng công nghệ hiện đại để bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý nhà nước.

Từ khóa: Tham nhũng, kiểm soát quyền lực, tổ chức bộ máy, quản lý hành chính nhà nước.

1. Đặt vấn đề

Bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam có cấu trúc phức tạp với nhiều cơ quan, đơn vị tham gia vào việc ra quyết định và thực thi chính sách. Quyền lực trong bộ máy có thể trở thành yếu tố thúc đẩy tham nhũng khi không được kiểm soát đúng mức. Tham nhũng có thể phát sinh từ việc lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ hoặc sự thiếu minh bạch trong các quyết định hành chính.

Kiểm soát quyền lực trong bộ máy hành chính nhà nước là một yêu cầu tất yếu trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Quyền lực trong bộ máy hành chính nhà nước rất dễ trở thành một công cụ bị lạm dụng nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ. Quyền lực trong bộ máy nhà nước có thể dẫn đến tham nhũng khi những người nắm giữ quyền lực lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc nhóm, thay vì phục vụ lợi ích chung của xã hội.

2. Thực chất của tham nhũng là sự tha hóa quyền lực chính trị

Khái niệm tham nhũng rất phức tạp, nó không phải là một khái niệm thuần nhất, nó biểu hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, với sự đa dạng về hành vi, hình thức1.

Tham nhũng nói đến sự tha hóa đạo đức và từ này bắt nguồn từ tiếng Latinh (Corrumpere) có nghĩa là làm hỏng, lạm dụng hoặc phá hủy2. Hiểu một cách chung nhất, tham nhũng là hành vi trong bối cảnh nhất định, bị sai lệch so với chuẩn mực phổ biến trên thực tế (hay chuẩn mực này được cho là phổ biến) và nó có mục đích dùng nguồn lực công để đạt lợi ích tư. Xét trong lĩnh vực công, sự lạm dụng quyền lực của quan chức nhằm tư lợi là vi phạm nguyên tắc về sự tối thượng của pháp luật (pháp quyền) và đây cũng là một trong những biểu hiện của tham nhũng. Với ý nghĩa đó, tham nhũng là một hình thức bệnh lý chính trị đặc biệt, liên quan đến quyền lực chứ không chỉ là sự suy thoái3.

Với tư cách là một hiện tượng xã hội, tham nhũng mang tính lịch sử – xã hội. Tham nhũng là căn bệnh đồng hành của mọi Nhà nước, kể cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh, cố hữu của quyền lực, là biểu hiện “cô đọng” nhất của sự tha hoá quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, không thể che giấu hoặc cố tình đánh giá sai về thực trạng tham nhũng. Tất cả những hành động này sẽ để lại những hậu quả khôn lường đối với sự phát triển của xã hội. Nhìn nhận “đúng” và “trúng” vấn đề tham nhũng là thước đo cho sự tiến bộ của xã hội loài người.

Tham nhũng từ góc nhìn kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật là sự lợi dụng chức quyền, địa vị, uy tín cá nhân, tổ chức, Nhà nước nhằm thu lợi bất chính, gây tác hại đến sự phát triển của đất nước. Theo khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Từ góc nhìn triết học chính trị, tham nhũng không chỉ là sự vi phạm lợi ích kinh tế – vật chất của cộng đồng, xã hội mà còn là hành vi của sự tha hoá bản chất con người (tha hoá về đạo đức, lối sống) là hiện tượng, hành vi phản lại những giá trị nhân văn và tiến bộ của con người và xã hội. Từ góc độ triết học chính trị, tham nhũng bao gồm cả tham nhũng vật chất lẫn tham nhũng tinh thần; tham nhũng có nguy cơ/hiện thực trong cả cơ quan phòng, chống tham nhũng…

Dù các cách tiếp cận rất khác nhau nhưng điểm thống nhất cao là tham nhũng gắn với vị trí công quyền, gắn với quyền lực công, có mục đích tư lợi, xâm phạm những quy tắc pháp lý, đạo lý, nghề nghiệp… và thường là hành vi che dấu, bí mật. Tham nhũng, nhìn ở góc độ rộng lớn hơn là một biểu hiện lệch chuẩn đạo đức về sự phân bổ nguồn lực xã hội hay còn gọi là sự lạm dụng thẩm quyền một cách có hệ thống để sử dụng nguồn lực công nhằm đạt được lợi ích cá nhân. Những chuẩn mực đạo đức trong phân bổ nguồn lực xã hội được xác định bởi luật pháp, những quy tắc xã hội, những nguyên tắc hiện đại của quản lý như khách quan, bình đẳng và mối quan hệ trong thị trường.

Như vậy, thực chất của tham nhũng là sự lộng quyền, lạm quyền, sự tha hóa quyền lực chính trị (trước hết là quyền lực nhà nước). Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực làm suy yếu hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế. Nó xảy ra khi các cá nhân hoặc nhóm người nắm giữ quyền lực lợi dụng vị trí và quyền hạn của mình để trục lợi cá nhân, bất chấp lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.

Thực chất của tham nhũng chính là sự tha hóa quyền lực chính trị khi mà quyền lực không còn được sử dụng vì lợi ích chung của xã hội mà trở thành công cụ để phục vụ lợi ích cá nhân. Để chống tham nhũng hiệu quả, cần kiểm soát chặt chẽ quyền lực, thực hiện các biện pháp giám sát, minh bạch hóa quyết định hành chính và bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Chỉ khi nào tham nhũng được giảm thiểu, sự tha hóa quyền lực bị ngăn chặn, nền chính trị và xã hội mới phát triển một cách lành mạnh và bền vững.

3. Kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sự tha hóa quyền lực

Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội. Sự tha hóa quyền lực là một trong những vấn đề nghiêm trọng trong các hệ thống chính trị, đặc biệt là khi quyền lực không được kiểm soát đúng mức. Khi quyền lực chính trị bị tha hóa, nó không còn phục vụ cho lợi ích công mà trở thành công cụ để phục vụ lợi ích cá nhân, nhóm lợi ích hoặc những mục tiêu không chính đáng. Để hạn chế sự tha hóa quyền lực, việc kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước là cực kỳ quan trọng. Cơ chế kiểm soát quyền lực giúp bảo đảm quyền lực được sử dụng đúng mục đích, phục vụ lợi ích của cộng đồng và xã hội.

Trong Tinh thần pháp luật, Montesquieu4 đã viết: “Ai có quyền cũng có xu hướng lạm quyền. Để tránh sự lạm quyền, quyền lực cần phải được ngăn chặn bằng quyền lực”5. Khao khát quyền lực là đặc tính cố hữu của con người từ thời cộng sản nguyên thủy đến khi hình thành nhà nước. Trong Leviathan (Thủy quái), Thomas Hobbes6 đã nhấn mạnh: “Trước hết tôi kể trong xu hướng tổng quát của loài người một sự thèm khát thường trực, khôn nguôi hết quyền lực này đến quyền lực khác mà nó chỉ chấm dứt cùng với cái chết”7. Nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp JeanJacques Rousseau8 đã viết: “Nếu có một quốc gia của thánh thần, nó sẽ được cai trị một cách dân chủ. Một Chính phủ hoàn thiện như vậy không phù hợp với con người”9. Đồng tình với Jean-Jacques Rousseau, James Madison10 cũng cho rằng: “Chính phủ là gì nếu không phải là sự phản ánh tốt nhất bản tính con người? Nếu con người là thiên thần, Chính phủ sẽ không cần thiết. Nếu thiên thần cai quản con người cũng không cần phải có những sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với Chính phủ”11. Với tư duy ấy thì một nhà nước cho dù hoàn thiện đến đâu vẫn do con người quản lý. Con người vốn dĩ không phải là thiên thần nên sự đam mê quyền lực là điều không thể tránh khỏi. Sự đam mê quyền lực luôn đẩy quyền lực đến xu hướng lạm quyền. Do đó, vấn đề kiểm soát quyền lực luôn được đặt ra như nhu cầu sống còn khi xây dựng và vận hành một đất nước, một chính quyền, một chế độ.

Thực tế đã cho thấy, quyền lực luôn có xu hướng bị tha hoá bởi những người nắm quyền lực. Khi con người chưa có quyền lực thì họ cố giành lấy quyền lực, khi có quyền lực rồi họ lại cố tăng cường, mở rộng quyền lực, vì quyền lực chính là phương tiện đơn giản, nhanh chóng nhất để họ đạt được những mục đích cá nhân. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu hướng lạm quyền, lộng quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai cũng vậy, bất kể là trong chế độ quân chủ hay dân chủ, nếu quyền lực không được kiểm soát hiệu quả. Sự tha hóa quyền lực thông qua biểu hiện lạm quyền, lợi dụng quyền để vụ lợi, trục lợi diễn ra ngày càng phổ biến, tinh vi hơn trong xã hội hiện đại.

Trong sự phát triển ngày càng nhanh của thế giới, lợi ích hình thành ở mọi lĩnh vực với nhiều cấp độ, hình thức khác nhau phụ thuộc vào vị trí, vào quyền lực do một người nắm giữ. Quyền lực càng lớn, lợi ích càng nhiều, càng dễ nảy sinh lòng tham. Vì thế khi nắm giữ nhiều quyền lực, một cá nhân rất dễ dàng tham nhũng để chiếm của công làm của tư. Như vậy, gốc rễ của vấn đề phòng, chống tham nhũng (tệ nạn ở mọi thời đại, mọi nhà nước) đó là phải kiểm soát quyền lực hiệu quả.Nhu cầu kiểm soát quyền lực là một nhu cầu cấp thiết trong mọi quốc gia trên thế giới để quyền lực được sử dụng đúng mục đích, để ngăn chặn, phòng, chống tham nhũng để Nhà nước và xã hội phát triển bền vững. Vậy làm cách nào để kiểm soát quyền lực hiệu quả? Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước để tìm ra phương thức kiểm soát quyền lực, trong đó có phương thức tổ chức mô hình nhà nước pháp quyền.

Kiểm soát quyền lực là quá trình giám sát, điều chỉnh và cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực và bảo đảm tính công bằng, minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Việc kiểm soát quyền lực có thể diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các cơ quan nhà nước cho đến xã hội và cộng đồng. Mục tiêu của kiểm soát quyền lực là hạn chế sự tha hóa quyền lực bằng cách bảo đảm các cá nhân hoặc tổ chức nắm giữ quyền lực không thể sử dụng quyền lực của mình để phục vụ cho lợi ích cá nhân, nhóm hay tổ chức của mình mà thay vào đó phải phục vụ lợi ích chung của xã hội.

 Kiểm soát quyền lực mang nghĩa trung tính, không hàm ý quyền lực bị lạm dụng. Có những khái niệm khác liên quan đến kiểm soát quyền lực mà cần phải làm rõ, ví dụ: chế ngự quyền lực, hạn chế quyền lực. Chế ngự quyền lực hàm ý tiêu cực, nó mang ý nghĩa là ngăn chặn, kìm chế tác hại của việc thực hiện quyền lực. Hạn chế quyền lực không chỉ mang ý nghĩa là tránh, ngăn ngừa sự lạm dụng cụ thể mà còn hàm ý chính quyền tự nó có tiềm năng vi phạm.

Tuy có sự khác biệt về nội dung các thuật ngữ, trên thực tế, việc kiểm soát quyền lực trong một số trường hợp bao hàm các hình thức chế ngự, hạn chế quyền lực vì kiểm soát quyền lực sẽ là vô nghĩa nếu không có khả năng hạn chế và chế ngự được sự lạm dụng quyền lực. Nói một cách đơn giản, kiểm soát quyền lực có nội hàm rộng hơn, không chỉ mang nghĩa tiêu cực (xem xét để ngăn chặn, xử lý những sai trái) mà còn có nghĩa tích cực (bảo đảm hoạt động quyền lực đúng mục đích, yêu cầu và hiệu quả).

Kiểm soát quyền lực xuất phát từ lý do: (1) Quản lý nói chung và quản lý của nhà nước cần phải có quyền lực bởi quyền lực mới có thể tạo ra trật tự xã hội, trật tự pháp luật. (2) Quyền lực và đặc biệt là quyền lực nhà nước có một đặc tính quan trọng là độc quyền sử dụng sức mạnh vũ lực, có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội nên cần theo dõi, xem xét để phát hiện, ngăn chặn sự lạm dụng. (3) Chủ thể có quyền lực (Nhân dân) nhưng không trực tiếp thực hiện quyền lực nên Nhân dân cần kiểm soát việc thực hiện quyền lực, bảo đảm quyền lực này được thực hiện theo đúng ý chí của họ. Kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế tác hại một trong những biểu hiện của sự lạm dụng quyền lực – tham nhũng.

Trong lịch sử, lý thuyết phân quyền ra đời với mục đích hạn chế sự chuyên quyền với giả định rằng, quyền lực và quyền lực nhà nước là không thể chế ngự, chỉ có thể dùng chính quyền lực mới có thể chế ngự được quyền lực, theo đó quyền lực nhà nước phải được phân chia thành ba nhánh khác nhau, hình thành bằng ba con đường độc lập với nhau, kiểm soát và cân bằng nhau. Tuy nhiên, phân chia quyền lực nhà nước không phải là công cụ toàn năng bởi lẽ: “… hậu quả của hệ thống kiểm tra và cân bằng là các chính phủ bị hạn chế khả năng làm điều tồi tệ mà cũng đồng thời bị mất khả năng thực hiện những điều tốt. Vấn đề cố hữu trong việc phân chia quyền lực là thiếu phương tiện để thống nhất hành động của chính quyền”12.

Để hoạt động kiểm soát quyền lực có ý nghĩa và có giá trị, các căn cứ và tiêu chí đánh giá việc thực hiện quyền lực cần phải được đặt ra trước, rõ ràng, chính xác, có thể đo lường được việc thực hiện quyền lực. Với ý nghĩa đó, việc thực hiện quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị nói chung phải trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật bởi pháp luật có thuộc tính xác định chặt chẽ về hình thức và nội dung, pháp luật là quy tắc được định trước, rõ ràng. Đó chính là cốt lõi của tư tưởng về nhà nước pháp quyền, xã hội pháp quyền – một giá trị văn minh của nhân loại.

Trong điều kiện hiện nay, mặc dù pháp luật được coi là tiêu chí, căn cứ đánh giá việc thực hiện quyền lực, là phương tiện kiểm soát quyền lực và là chỉ dấu của sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, pháp quyền hiểu theo nghĩa hẹp (pháp quyền hình thức) sẽ là căn cứ, tiêu chí mang tính hình thức, chưa thể hiện nội dung của việc thực hiện quyền lực. Đánh giá việc thực hiện quyền lực cần phải dựa trên những tiêu chí, căn cứ về nội dung, tính chất. Hay nói cách khác, việc kiểm soát quyền lực và thực hiện quyền lực phải phù hợp giá trị, chuẩn mực văn minh, tiến bộ chung của nhân loại. Ví dụ, tính hợp lý, tính dân chủ, bảo đảm quyền con người, tính dân tộc, tính hội nhập… phải được xem xét khi đánh giá việc thực hiện quyền lực. Với ý nghĩa đó, pháp quyền, nhà nước pháp quyền phải được hiểu theo nghĩa rộng nếu coi nó là phương tiện kiểm soát quyền lực chống lạm quyền, chống tham nhũng.

Kiểm soát quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị là một chủ trương quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi đây là một trong những vấn đề có tính quy luật khi chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, những nội dung liên quan đến kiểm soát quyền lực đã được ghi nhận ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn trong những văn kiện gần đây.

Ví dụ, Đại hội X (2006) xác định: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Đại hội XI (2011): “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Kiểm soát quyền lực tiếp tục ghi nhận trong văn kiện Đại hội XII (2016): “Xác định rõ cơ chế kiểm soát quyền lực”; “xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền”; “kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền” và Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh “tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; trách nhiệm giải trình”.

Hơn thế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có một nghị quyết riêng, Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong Nghị quyết này, một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã gắn kiểm soát quyền lực với phòng, chống tham nhũng (nhiệm vụ thứ 8). Như vậy, có thể nói, nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, là tiền đề cho nhau.

Kiểm soát sự lạm dụng quyền lực đóng vai trò kép đối với việc hình thành và phát triển chế độ pháp quyền, bảo vệ và bảo đảm quyền dân chủ, quyền con người. Một mặt, kiểm soát quyền lực ngăn ngừa sự vi phạm Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác, kiểm soát quyền lực ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực giữa các cơ quan nhà nước, buộc các cơ quan có trách nhiệm trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân chủ, quyền con người.

Hơn nữa, yêu cầu về kiểm soát quyền lực trong điều kiện Việt Nam có lẽ thích hợp hơn bởi nó cũng tích hợp được một trong những tiêu chí đánh giá về nhà nước pháp quyền của một cách tiếp cận đưa ra – truy cứu những quan chức lạm quyền (Prosecution of Office Abuse). Điều quan trọng là phân quyền hoặc kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực, ngăn ngừa sự chuyên quyền phải hướng tới mục đích cao cả nhất – bảo vệ tự do cho cá nhân trước sự lạm dụng quyền lực. Cũng như nguyên tắc trên, hiệu quả kiểm soát quyền lực phải dựa trên cơ sở các cơ chế cụ thể được luật hóa.

Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý. Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.

Như vậy, kiểm soát quyền lực là một biện pháp quan trọng để hạn chế sự tha hóa quyền lực. Thực hiện kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả sẽ giúp ngăn chặn các hành vi tham nhũng, lạm quyền và bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng phục vụ lợi ích chung của xã hội. Các cơ chế giám sát, phân quyền rõ ràng, minh bạch hóa thông tin, pháp luật nghiêm minh và ứng dụng công nghệ là những yếu tố quan trọng giúp kiểm soát quyền lực và tạo ra một môi trường chính trị trong sạch, công bằng và hiệu quả.

4. Kiểm soát quyền lực – yếu tố cốt lõi để phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Kiểm soát quyền lực không chỉ giúp ngăn ngừa tham nhũng mà còn tăng cường niềm tin của người dân vào Chính phủ và các cơ quan nhà nước. Chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống chính trị cần phải chống một cách thực tế, cụ thể chứ không thể chống một cách chung chung, hình thức.

Muốn đấu tranh phòng, chống tham nhũng thì tất yếu phải có giải pháp kiểm soát quyền lực chính trị (kiểm soát quyền lực của đảng chính trị; kiểm soát quyền lực của nhà nước; kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị – xã hội). Theo đó, thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện giải pháp mang tính định hướng như sau:

Thứ nhất, tham nhũng có nhiều nguyên nhân nên đấu tranh loại trừ tham nhũng phải hướng tới loại trừ những nguyên nhân gây nên tham nhũng. Cũng có quan điểm cho rằng, tham nhũng gia tăng do quá trình phải điều tiết (deregulating), tư nhân hóa và giảm vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế. Nếu quá trình này không được thực hiện đồng thời với việc củng cố các thể chế để tạo sự kiểm soát nhằm bảo đảm trách nhiệm sẽ có thể làm tăng cơ hội tham nhũng. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, hoàn thiện thể chế kinh tế, chính trị và xã hội nên yêu cầu củng cố đồng bộ các thể chế là cần thiết nhằm bảo đảm yêu cầu có tính hai mặt, chống tham nhũng nhưng vẫn phải phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai tham nhũng được hiểu một cách chung nhất và có mức độ đồng thuận cao là hành vi tư lợi dựa trên vị trí công quyền và quyền lực được giao. Chính vì vậy, một trong những vấn đề trọng tâm của chống tham nhũng là kiểm soát quyền lực gắn với việc hạn chế sự lạm dụng quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước. Nói cách khác, nguyên nhân cơ bản nhất của tham nhũng là sự bất cân xứng về quyền lực và quyền lực công, sự lạm dụng quyền lực công không bị kiểm soát, do vậy, chống tham nhũng phải dựa trên cơ sở mối tương tác giữa kiểm soát quyền lực và nhà nước pháp quyền.

Thứ ba, dân chủ và quyền con người là một yêu cầu, tính chất quan trọng của nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng. Việc thực hiện dân chủ và quyền con người đóng vai trò kép bởi một mặt nó là phương tiện cho sự tham gia dân chủ để kiểm soát quyền lực bị lạm dụng nhằm mưu lợi cá nhân và nó cũng đóng vai trò là mục đích của cơ chế kiểm soát quyền lực – chống tham nhũng.

 Như vậy, dân chủ, quyền con người theo tinh thần của nhà nước pháp quyền vừa là mục đích và là phương tiện của cơ chế kiểm soát quyền lực lạm dụng vì lợi ích cá nhân. Chống tham nhũng phải gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ, bảo vệ quyền con người trong quản trị quốc gia. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với sự công khai, minh bạch, là yêu cầu bắt buộc đối với việc chống tham nhũng và là quyền dân chủ, quyền cơ bản của cá nhân

Thứ tư, kiểm soát tham nhũng phải bằng pháp luật nói chung và bằng việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Pháp luật có tính phổ biến, thể hiện những giá trị chung trong xã hội và do vậy nó sẽ khắc phục được sự khác biệt văn hóa về hành vi được coi là tham nhũng (ví dụ nhận quà). Khi đã được quy định trong luật pháp là hành vi tham nhũng, sự khác biệt trong nhìn nhận và thái độ về một hành vi lợi dụng quyền lực công để tư lợi sẽ giảm thiểu và gia tăng sự đồng thuận trong việc lên án hành vi đó và lên án bằng sự trừng phạt của pháp luật.

Hơn nữa, kiểm soát quyền lực phải dựa trên chuẩn mực, có căn cứ để theo dõi và với yêu cầu này, pháp luật là phương tiện phù hợp nhất để kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực bị lạm dụng để tư lợi – tham nhũng nói riêng. Dưới góc độ này, luật pháp với tư cách là phương tiện kiểm soát quyền lực, hạn chế sự tùy tiện – một điều kiện quan trọng trong phòng, chống tham nhũng phải phù hợp với yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Pháp luật phòng, chống tham nhũng phải mang giá trị, nội dung của kiểm soát quyền lực và nhà nước pháp quyền.

Lộ trình và biện pháp phòng, chống tham nhũng bằng kiểm soát quyền lực cần thực hiện nhanh chóng và triệt để những nguyên tắc, giá trị của nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Những nguyên tắc quan trọng nhất cần ưu tiên thực hiện, là: (1) Ghi nhận bằng Hiến pháp và pháp luật những nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN; (2) Thể chế hóa và hiện thực hóa hơn nữa cơ chế kiểm soát quyền lực theo định hướng và nội dung chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam; (3) Tiếp tục bảo đảm, bảo vệ và thực thi các quyền dân chủ, quyền con người nói chung và trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng nói riêng; (4) Bảo đảm sự độc lập, hiệu lực, hiệu quả của cơ quan tư pháp nói chung và tòa án nói riêng; (5) Thiết kế lộ trình cụ thể để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cơ chế kiểm soát quyền lực gắn liền với phòng, chống tham nhũng, đồng thời hình thành các tiêu chí, căn cứ đánh giá có tính định lượng để đo lường kết quả thực hiện quá trình này.

Như vậy, để phòng, chống tham nhũng cần thực hiện tính nghiêm minh của trật tự luật pháp, quyền lực phải rành mạch, không chồng chéo, cần đến tính công khai để trật tự luật pháp được củng cố… Điều cần thiết đối với một nhà nước là đạt được sự nhất trí cao giữa hệ thống vận hành với các nguyên tắc pháp quyền. Cần duy trì và nâng cao tầm quan trọng của trách nhiệm giải trình trong quản trị quốc gia. Trách nhiệm giải trình được coi là một yếu tố quan trọng đối với hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước. Bởi vì trách nhiệm giải trình bao gồm hai khía cạnh chính: khả năng giải đáp và sẵn sàng chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn. Xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng qua chất lượng của các cuộc tiếp xúc với cử tri và các phiên chất vấn gần đây tại Quốc hội. Những cuộc chất vấn và phản hồi trả lời không chỉ giúp làm minh bạch nhiều quy định và chính sách của Nhà nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng giám sát. Thực tế, các phiên chất vấn không chỉ giúp làm rõ nhiều vấn đề nhạy cảm, bức xúc trong xã hội mà còn ngăn chặn những vấn đề, như: “tham nhũng chính sách”, “lợi ích nhóm”, như đã được cảnh báo bởi nhiều nhà nghiên cứu và chuyên gia.

Để tăng cường sự công khai, minh bạch thông tin trong đời sống xã hội cũng như quản lý và điều hành, chính quyền phát triển ngày nay phải coi việc cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân là một nghĩa vụ, không còn là hình thức “ban phát” hay “xin – cho” như trước đây. Trong bối cảnh này, chính quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ và người dân có quyền và được bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của mình thông qua các hệ thống văn bản pháp lý đầy đủ và toàn diện, như: Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016… Do đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp lý nhằm khuyến khích và khơi thông dòng chảy thông tin trong quản lý và điều hành.

Thứ năm, tham nhũng liên quan chặt chẽ đến văn hóa và mỗi một xã hội sẽ có những nét đặc trưng văn hóa riêng, chống tham nhũng phải gắn với đặc thù văn hóa quốc gia. Do vậy, chống tham nhũng phải gắn với chủ thể chia xẻ giá trị văn hóa chung và được thực hiện bởi chính những chủ thể mang văn hóa đó. Với ý nghĩa đó, chống tham nhũng phải mang tính xã hội, là sự kiểm soát quyền lực từ phía xã hội, mang tính xã hội, bởi xã hội. Tuy nhiên, tính chất của văn hóa với tư cách là một phương diện phòng, chống tham nhũng cũng phải mang bản sắc, dấu ấn của văn hóa pháp quyền.

Thứ sáu, tham nhũng hiện nay có xu hướng phát triển vượt quy mô quốc gia, có tính toàn cầu, bị chi phối bởi quá trình toàn cầu hóa. Điều này cần thiết đối với hợp tác toàn cầu chống tham nhũng trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Mặt khác, pháp luật về chống tham nhũng phải hội nhập, quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật phải nội luật hóa pháp luật và chuẩn mực quốc tế về chống tham nhũng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền – sự thượng tôn pháp luật đã là giá trị cốt lõi, phải là cơ sở cho chống tham nhũng trên quy mô toàn cầu, tương thích với giá trị, chuẩn mực pháp quyền toàn cầu.

Thứ bảy, nếu tham nhũng có tính hệ thống, tính phổ biến hay ở một mức độ nào đó nó được thể chế hóa thì công cuộc chống tham nhũng sẽ trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, chống tham nhũng phải được thực hiện càng sớm càng tốt và phải được thực hiện liên tục, không ngừng nghỉ, thực hiện một cách toàn diện về các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, xã hội) và là công việc chung của toàn xã hội. Cũng với ý nghĩa đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực phải được thực hiện một cách đồng bộ và toàn diện các cơ chế và thực hiện lâu dài mới có thể kiểm soát và giảm được tham nhũng. Do đó, cần kiên quyết và kiên trì trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực để bảo đảm sự liêm chính trong quản trị nhà nước đương đại. Sự liêm chính dựa trên hai cơ sở chủ yếu: các chuẩn mực đạo đức xã hội và các quy định của pháp luật.

Thực tế chỉ ra rằng, hành vi tham nhũng không chỉ là hậu quả của suy thoái và xuống cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà còn là sự bất tuân đối với các ràng buộc pháp lý của một số cán bộ và đảng viên. Do đó, việc xử lý tham nhũng không chỉ là tất yếu mà còn là một nhiệm vụ quan trọng phát sinh từ yêu cầu của quản trị nhà nước với việc đề cao, tôn trọng pháp quyền và tính pháp quyền, liêm chính trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Tham nhũng vừa là nguyên nhân nhưng cũng đồng thời là hậu quả của bất công trong xã hội. Hơn nữa, sức bền của tham nhũng là rất cao cho nên một giải pháp, hành động đơn lẻ, chống tham nhũng theo trào lưu, theo giai đoạn… sẽ không thể thành công.

Thứ tám, xây dựng chính quyền Nhân dân. Để nâng cao bản chất của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân của chính quyền, cần phải xây dựng “xã hội dân sự” (xã hội công dân). Bởi vì, trình độ hiểu biết của Nhân dân trong việc tự giải quyết các vấn đề của chính mình là thước đo của trình độ dân chủ trong xã hội. Theo đó, phải hoàn thiện cơ chế bầu cử, ứng cử trong quá trình hình thành những cơ quan, cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Cần công khai hơn nữa mọi hoạt động của Quốc hội…

Để xây dựng chính quyền Nhân dân, việc tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước cần phải quán triệt các vấn đề căn cốt sau đây: (1) Cần mở rộng hoạt động trưng cầu ý dân đối với các công việc quan trọng của đất nước và của địa phương. (2) Tiếp tục củng cố niềm tin giữa người dân và chính quyền các cấp. (3) Lựa chọn các hình thức tham gia phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn (việc lựa chọn cách thức tham gia phải căn cứ vào đặc điểm của địa bàn hành chính, đặc điểm của từng đối tượng, từng lĩnh vực thu hút, có như vậy mới nắm bắt và phát huy được lợi thế của từng đối tượng). (4) Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người dân; thường xuyên giám sát, đánh giá công tác phục vụ Nhân dân của các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức; sử dụng tiêu chí hài lòng của Nhân dân là thước đo đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, năng lực của người đứng đầu cơ quan; sử dụng tiêu chí về sự tham gia của Nhân dân trong ban hành và thực hiện quyết định liên quan đến cuộc sống người dân để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước. (5) Tổ chức thường xuyên hội nghị trao đổi, đối thoại giữa chính quyền cơ sở với người dân. Xây dựng quy trình tổ chức đối thoại để nâng cao hiệu quả đối thoại và thúc đẩy sự tham gia của người dân.

Với chế độ dân chủ Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước vì lợi ích của mình. Dân chủ là phương tiện giúp cho dân kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức. Nó hạn chế sự lạm quyền, sự lợi dụng quyền lực, chức vụ, vị thế vào việc riêng. Dân chủ thể hiện trình độ, năng lực làm chủ của Nhân dân. Người dân có trình độ cao, hiểu biết sâu sắc về tổ chức, chức năng, các hoạt động của Nhà nước sẽ tạo điều kiện để Nhân dân tham gia điều hành Nhà nước. Đảng, Nhà nước phải vừa tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường lành mạnh để tinh thần dân chủ của xã hội được tự do phát triển. Cụ thể hoá cơ chế dân chủ trong Đảng, Nhà nước, ngoài xã hội, giữa hệ thống chính trị và Nhân dân để mỗi người, mỗi cấp, mỗi ngành nhận rõ quyền hạn, trách nhiệm trong việc xây dựng, thực thi nền dân chủ. Ngoài ra, phải đổi mới phương thức vận hành cơ chế dân chủ một cách thống nhất, đồng bộ để mọi người hiểu rõ, tự tin tham gia vào đời sống dân chủ xã hội.

5. Kết luận

Kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng là công cuộc chung của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phòng, chống tham nhũng, bao gồm: các hoạt động của hệ thống cơ quan Đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân, căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị – xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế – xã hội, đất nước phát triển bền vững. Hiệu quả kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng là thước đo của việc quy định và thực thi các biện pháp, trách nhiệm pháp lý trong một chỉnh thể.

Kiểm soát quyền lực là yếu tố cốt lõi để phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Việc kiểm soát quyền lực thông qua các cơ chế giám sát độc lập, minh bạch hóa thông tin, phân quyền rõ ràng và xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng sẽ giúp giảm thiểu sự tha hóa quyền lực, bảo vệ lợi ích chung của xã hội và củng cố niềm tin của người dân vào chính phủ. Để thực hiện hiệu quả công tác này, Việt Nam cần tăng cường các cơ chế pháp lý, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển một hệ thống chính trị công bằng, minh bạch và có trách nhiệm.

Chú thích:
1. Adam Graycar, Tim Prenzler (2013). Understanding and Preventing Corruption, Palgrave Macmillan, p. 17.
2. Richard Rose, Caryn Peiffer (2019). Bad Governance and Corruption, Palgrave Macmillan, P. 4.
3. Carl J Friedrich (2007). Curruption concepts in Historical Perspective, trong Political Corruption Concepts And Contexts, Arnold 1. Heidenheimer, Michael Johnston (editor), Transaction Publishers, P. 19-20.
4. Montesquieu (tên đầy đủ là Charles-Louis de Secondat, Baron de La Brède et de Montesquieu) là một nhà triết học và tư tưởng chính trị nổi tiếng người Pháp sống vào thế kỷ 18.
5. Montesquieu (1962). The Spirit of the Laws. New York: Hafner Publishing Company, p. 150.
6. Thomas Hobbes (1588 – 1679) là một triết gia người Anh, nổi tiếng với các lý thuyết về chính trị và xã hội và là một trong những người sáng lập tư tưởng chính trị hiện đại.
7. Thomas Hobbes (1997). Leviathan, New York, London: W.W. Norton and Company, p. 55.
8. Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) là một triết gia, nhà văn và nhà soạn nhạc người Thụy Sĩ, nổi tiếng với những đóng góp sâu sắc vào triết học chính trị và lý thuyết xã hội.
9. Jean – Jacques Rousseau (1994). The Social Contract, Oxford University Press, p. 102.
10. James Madison (1751-1836) là một trong những người sáng lập quan trọng nhất của Hoa Kỳ, và được gọi là “Cha đẻ của Hiến pháp Mỹ”.
11. Adam Przeworski (2010). Democracy and the Limits of Self-Government, Cambridge University Press, trang 137.
12. Thuật ngữ này xuất hiện trong tư tưởng pháp quyền tự nhiên của triết học chính trị phương Tây hiện đại bắt đầu từ Thomas More đến nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Jean – Adam Przeworski (2010). Democracy and the Limits of Self-Government, Cambridge University Press.
2. Jacques Rousseau (1994). The Social Contract, Oxford University Press.
3. Richard Rose, Caryn Peiffer (2019). Bad Governance and Corruption, Palgrave Macmillan.
4.  P.P. Viseslavsev (1982). Khủng hoảng văn hóa, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội mới và chủ nghĩa tự do mới, New York.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB. Chính trị Quốc gia.