Hoàn thiện pháp luật quản lý cư trú đối với người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội

ThS. Đoàn Đức Thắng
NCS. Học viện An ninh nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn Hà Nội luôn chấp hành tốt pháp luật Việt Nam trong quá trình sinh sống, hoạt động và đã có những đóng góp tích cực đối với quá trình hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế – xã hội. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận nhỏ người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới có những hoạt động vi phạm pháp luật. Bài viết nghiên cứu thực trạng pháp luật liên quan đến quản lý cư trú của người nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua, phân tích những hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao công tác quản lý cư trú người nước ngoài trong thời gian tới.

Từ khóa: Hoàn thiện pháp luật; người nước ngoài; khu đô thị mới; Hà Nội.

1. Tình hình người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội

Tính đến tháng 6/2024, trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 105 khu đô thị mới đang hoạt động, trong đó có nhiều khu đô thị mới khang trang với những dịch vụ tiện ích, hiện đại. Việc xây dựng, vận hành các khu đô thị mới đã góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tạo lập diện mạo đô thị văn minh, hiện đại nâng cao chất lượng đời sống của người dân, góp phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn.

Theo thống kê của các cơ quan quản lý, từ năm 2015 đến tháng 6/2024 có trên 4 triệu lượt người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội; tăng dần từ năm 2015 đến năm 2019, tuy nhiên sụt giảm đáng kể trong các năm 2020, 2021 do đại dịch Covid-19; từ năm 2022 đến 6/2024 tiếp tục có xu hướng gia tăng do kinh tế hồi phục sau dịch. Tính đến tháng 6/2024, có khoảng 20.000 người nước ngoài đang cư trú tại các căn hộ, nhà chung cư thuộc các khu đô thị mới tại Hà Nội; trong đó hình thức tạm trú chiếm tỷ lệ 99,92%, chỉ có 14 lượt người người nước ngoài thường trú (chiếm tỷ lệ 0.08%). Về thời gian, người nước ngoài cư trú dài hạn trên 3 tháng tại các khu đô thị mới chiếm 80,3%; dưới 3 tháng chiếm 19,7%.

Trong quá trình sinh sống, đa số người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Việt Nam, qua đó có những đóng góp tích cực đối với quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn một bộ phận nhỏ người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới có những hoạt động vi phạm pháp luật, điển hình như:

Một là, vi phạm pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú. Từ năm 2015 đến tháng 6/2024, các cơ quan chức năng đã phát hiện, xử lý hàng trăm vụ việc người nước ngoài vi phạm pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn. Một số người nước ngoài nhập cảnh trái phép thông qua các đường mòn, lối mở tại các tỉnh biên giới giáp với Việt Nam, di chuyển bằng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt về Hà Nội sau đó cư trú trái phép tại các khu đô thị mới trên địa bàn; sử dụng thẻ tạm trú, chứng nhận tạm trú quá hạn, không làm thủ tục gia hạn tạm trú đúng thời gian quy định. Một số đối tượng trốn truy nã nhập cảnh trái phép vào Việt Nam sau đó lợi dụng tính chất khép kín của các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội để ẩn náu, trốn tránh sự theo dõi, phát hiện của các cơ quan chức năng. Điển hình tháng 8/2022, Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện, bắt giữ đối tượng Han Hyunsik (sinh năm 1979, quốc tịch Hàn Quốc bị Interpol truy nã về tội trộm cắp tài sản), khi đối tượng nhập cảnh trái phép Việt Nam và đang lẩn trốn trong một căn hộ chung cư thuộc khu đô thị The Manor, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm1.

Hai là, lợi dụng sự khép kín của các khu đô thị mới, một số đối tượng người nước ngoài đã có các hành vi vi phạm, như: sinh hoạt tôn giáo trái phép; tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật; mua bán, vận chuyển, tổ chức, sử dụng trái phép chất ma túy; buôn lậu; sản xuất, buôn bán hàng giả; lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Đáng chú ý, nổi lên tình trạng người nước ngoài cư trú tại khu đô thị mới hoạt động phạm tội sử dụng công nghệ cao (đánh bạc, tổ chức đánh bạc; hoạt động “tín dụng đen”; tàng trữ, tán phát các video có nội dung khiêu dâm, nhạy cảm; tư vấn tài chính, chứng khoán, thanh toán trung gian trái pháp luật…) với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tính chất xuyên quốc gia, lôi kéo đông đảo các đối tượng tham gia. Điển hình như năm 2019, Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện, khám phá đường dây cho vay nặng lãi do các đối tượng Li Zhao Qiang, Zhang Min và Liu Dan Yang (quốc tịch Trung Quốc) điều hành, móc nối với hàng chục đối tượng trong và ngoài nước, lợi dụng các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội để hoạt động “tín dụng đen”, cho vay nặng lãi thông qua App điện thoại với lãi suất lên tới 1.500%, tổng số tiền cho vay 1.600 tỷ đồng, thu lợi bất chính hơn 730 tỷ đồng2.

Tháng 6/2024, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an thành phố Hà Nội phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ có liên quan kiểm tra hành chính căn hộ ở khu đô thị mới huyện Hoài Đức, Hà Nội phát hiện 5 đối tượng người Hàn Quốc (do Kim Sung Young, sinh năm 1998 cầm đầu) sử dụng hệ thống máy tính để điều hành các trang web đánh bạc trên mạng internet; các đối tượng cũng đồng thời bị Cơ quan Cảnh sát quốc gia Hàn Quốc ra lệnh truy nã. Sau khi phát hiện, bắt giữ, Công an Thành phố đã phối hợp với Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an bàn giao các đối tượng cùng tang vật cho cơ quan chức năng của Hàn Quốc phục vụ công tác điều tra, xử lý theo quy định3.

2. Những quy định pháp luật liên quan đến cư trú người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thời gian qua, thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực trong hoạt động quản lý cư trú đối với người nước ngoài, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý cư trú của người nước ngoài.

(1) Hệ thống pháp luật Việt Nam: Hiến pháp năm 2013, tại Điều 48 quy định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam”4.

Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), tại Điều 3 quy định cơ sở pháp lý để xác định quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Theo đó, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là “công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”5.

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019 và năm 2023), tại khoản 9 Điều 3 xác định: “Cư trú là việc người nước ngoài thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam”; đồng thời quy định về nguyên tắc nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài (Điều 4); về các hành vi nghiêm cấm đối với người nước ngoài (Điều 5); về việc thu hồi, hủy bỏ giấy tờ có giá trị nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam (Điều 6); về cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (chương VI, từ Điều 31 – Điều 43)6.

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 347 quy định về tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh; tội ở lại Việt Nam trái phép; Điều 348 quy định về tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép7.

Bên cạnh các văn bản luật trên, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Đầu tư năm 2020, Luật Nhà ở năm 2023… cũng có một số quy định điều chỉnh các hoạt động của người nước ngoài tại Việt Nam, là cơ sở pháp lý để lực lượng quản lý xuất nhập cảnh phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong quản lý cư trú của người nước ngoài tại các khu đô thị mới.

Để kịp thời hướng dẫn quy định của các bộ luật, luật có liên quan đến người nước ngoài, Chính phủ đã ban hành một số nghị định, như: Nghị định số 75/2020/NĐ-CP ngày 01/7/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Nghị định số 142/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất; Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình…

(2) Các quy định của pháp luật quốc tế. Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961, tại Điều 29 nhấn mạnh: “Thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt giữ hoặc bị giam giữ dưới bất cứ hình thức nào…”8.

Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963, tại Điều 41 quy định khác với viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự cũng có thể bị bắt hoặc tạm giam chờ xét xử trong trường hợp “…phạm tội nghiêm trọng và theo quyết định của cơ quan tư pháp có thẩm quyền”. Ngoài ra, tại Điều 46 cũng quy định: “Viên chức lãnh sự, nhân viên lãnh sự và những thành viên gia đình họ cùng sống trong hộ được miễn mọi nghĩa vụ theo luật và các quy định của Nước tiếp nhận đối với việc đăng ký ngoại kiều và giấy phép cư trú”9.

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), tại Điều 12 đề cập: “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó…”10.

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR) tại Điều 13 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình”11.

(3) Các văn bản của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Trên cơ sở các quy định trên, UBND thành phố Hà Nội cũng đã ban hành các văn bản pháp luật quản lý người nước ngoài trên địa bàn, điển hình như: Quyết định số 18/2017/QĐ-UBND ngày 11/5/2017 của UBND thành phố Hà Nội ban hành quy chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành thành phố, ủy ban nhân dân các quận, huyện, thị xã trong công tác quản lý người nước ngoài cư trú, hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 2707/QĐ-UBND ngày 23/5/2024 của UBND thành phố Hà Nội về việc phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội; Kế hoạch số 296/KH-UBND ngày 15/11/2022 của UBND Thành phố về khắc phục tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, vận hành, sử dụng nhà chung cư thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội; Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày 13/01/2023 về triển khai Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 03/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy trong tình hình mới; Quyết định số 08/2022/QĐ-UBND ngày 10/02/2022 của UBND thành phố Hà Nội về ban hành quy định phân công tổ chức giám sát, đánh giá chương trình, dự án đầu tư của thành phố Hà Nội trong đó có đầu tư của người nước ngoài…

Đặc biệt, hằng năm UBND thành phố ban hành các quyết định và kế hoạch về kiểm tra việc thực hiện các quy định về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người người nước ngoài đối với một số doanh nghiệp, nhà thầu sử dụng nhiều lao động người nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội…

Nhìn chung, các văn bản pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế nêu trên đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để lực lượng chức năng thực hiện tốt quản lý cư trú của người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, một số quy định vẫn còn những bất cập, thiếu đồng bộ, điển hình như: nhiều đối tượng người nước ngoài sử dụng giấy tờ giả để nhập cảnh Việt Nam với mục đích ở lại cư trú bất hợp pháp hoặc chờ xuất cảnh sang nước thứ ba. Các hành vi này có dấu hiệu của hành vi “Vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh; ở lại Việt Nam trái phép” quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hoặc hành vi “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình”, khi phát hiện các hành vi nêu trên, cơ quan có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền tố tụng; chỉ sau khi cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc ra các quyết định khác giải tỏa nghĩa vụ tố tụng đối với các đối tượng thực hiện hành vi, hồ sơ vụ việc mới được gửi lại cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Quy định này dẫn đến kéo dài quá trình xử lý, giải quyết vụ việc có thể gây lãng phí, tốn kém không cần thiết. 

Việc áp dụng hình thức phạt bổ sung “trục xuất” theo điểm b khoản 8 Điều 18, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP đối với các hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 là chưa phù hợp trong một số trường hợp, như: trẻ em có quốc tịch nước ngoài nhưng có cha mẹ là người Việt Nam, theo mẹ về Việt Nam sinh sống từ nhỏ, không có thân nhân ở nước ngoài; phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài, nhập quốc tịch nước ngoài nhưng sau đó ly hôn hoặc chồng chết nên trở về Việt Nam sinh sống, không có thân nhân ở nước ngoài; người nước ngoài có vợ, con là người Việt Nam đã sinh sống ở Việt Nam từ lâu và tiếp tục có nguyện vọng sinh sống lâu dài tại Việt Nam12

Quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 2 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý lao động nước ngoài làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam” quy định hộ gia đình và cá nhân được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam là người sử dụng lao động nước ngoài và được phép bảo lãnh cho lao động nước ngoài. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 14 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019 và năm 2023) thì cá nhân là công dân Việt Nam và hộ gia đình không thuộc diện được mời bảo lãnh cho lao động nước ngoài nhập cảnh Việt Nam.

Ngoài ra, địa bàn thành phố Hà Nội có phạm vi rộng với nhiều khu đô thị mới, đa dạng các loại hình cơ sở lưu trú, nhất là các khu biệt thự, chung cư cao tầng biệt lập trong các khu đô thị. Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơ chế gắn trách nhiệm của ban quản lý, ban quản trị, bộ phận lễ tân, an ninh, bảo vệ tại các khu đô thị mới, khu chung cư tham gia phối hợp với lực lượng chức năng trong quản lý cư trú của người nước ngoài. Nhiều khu đô thị có mật độ người nước ngoài cư trú cao, một số khu đô thị chưa thành lập được ban quản trị, ban quản lý và tổ dân phố… nên lực lượng chức năng gặp nhiều khó khăn trong huy động các lực lượng tham gia quản lý cư trú đối với người nước ngoài. Đặc biệt, khi người nước ngoài dùng App thuê nhà (chủ yếu ngắn hạn) để cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội nhưng không khai báo, đăng ký với các cơ quan chức năng, thậm chí không cần gặp trực tiếp chủ nhà… đã gây ra khó khăn trong công tác quản lý, nắm tình hình của các lực lượng chức năng.

3. Một số kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan quản lý cư trú người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình”.

(1) Sửa đổi quy định về thủ tục xử phạt đối với những hành vi đồng thời được quy định trong Bộ luật Hình sự (tại Điều 6 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP) theo hướng: nếu cơ quan chức năng phát hiện hành vi sử dụng giấy tờ giả để nhập cảnh vảo Việt Nam tại cửa khẩu, qua kiểm tra, xác minh ban đầu thấy không có dấu hiệu của đường dây và không liên quan đến các đối tượng ở trong nước thì ngay lập tức đẩy đuổi khỏi lãnh thổ Việt Nam; không cần thiết gửi hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền tố tụng để điều tra, xác minh dẫn đến kéo dài thời gian xử lý, giải quyết, gây tốn kém, lãng phí.

(2) Sửa đổi quy định về hình thức xử phạt bổ sung là trục xuất đối với người nước ngoài (tại khoản 8 Điều 18 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP) theo hướng không áp dụng đối với các trường hợp: là con của công dân Việt Nam theo bố hoặc mẹ về Việt Nam sống từ nhỏ, không có thân nhân ở nước ngoài; là người gốc Việt Nam, lấy vợ hoặc chồng nước ngoài nhưng sau đó ly hôn hoặc vợ, chồng chết thì quay về Việt Nam sinh sống, không có thân nhân ở nước ngoài…

(3) Sửa đổi quy định về đăng ký và quản lý cư trú (tại Điều 9 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP) theo hướng tăng cường chế tài xử phạt đối với hành vi không khai báo tạm trú cho người nước ngoài để nâng cao trách nhiệm, ý thức chấp hành của chủ cơ sở lưu trú và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam; bổ sung chế tài xử lý tăng nặng đối với các trường hợp không khai báo tạm trú cho nhiều người nước ngoài và trong thời gian dài; bổ sung trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với người nước ngoài thuộc diện miễn thị thực, không có cơ quan, tổ chức mời, bảo lãnh, không có khả năng tài chính để nộp phạt, không có tài sản, tài khoản ngân hàng để cưỡng chế…

Thứ hai, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về vấn đề mời, bảo lãnh cho lao động nước ngoài nhập cảnh Việt Nam tại Điều 2 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ “Quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý lao động nước ngoài làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam” theo hướng: cá nhân là công dân Việt Nam và hộ gia đình không thuộc diện được mời, bảo lãnh cho lao động nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, bảo đảm phù hợp, đồng bộ với quy định tại Điều 14 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2023).

Thứ ba, kiến nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong đó, tập trung làm rõ vấn đề nhận thức về tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia; bổ sung việc áp dụng hình phạt đối với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia; việc áp dụng tình tiết tăng nặng đối với người nước ngoài, công dân Việt Nam là thành viên của tổ chức tội phạm thực hiện hành vi phạm tội… nhằm bảo đảm tính răn đe đối với loại tội phạm này; đồng thời ngăn ngừa về mặt xã hội đối với tội phạm do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam hoặc thực hiện tại nước ngoài nhưng có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của Việt Nam.

Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với người nước ngoài cư trú tại các khu đô thị mới trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thời gian tới lực lượng chức năng cần thực hiện tốt tuyên truyền các quy định của pháp luật về cư trú, về bảo đảm an ninh, trật tự cho người nước ngoài kết hợp tuyên truyền các phương thức, thủ đoạn hoạt động vi phạm pháp luật liên quan người nước ngoài tới các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan (các cơ quan có thẩm quyền, ban quản trị, chủ căn hộ cho thuê, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động, chuyên gia người nước ngoài, cư dân tại khu vực có người nước ngoài cư trú…), qua đó nâng cao tinh thần toàn dân tham gia phòng chống tội phạm.

Đặc biệt, các chủ thể cần đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền khác nhau, như: tổ chức các hội nghị tại trụ sở cơ quan, tại các khu dân cư và lồng ghép tại các hội nghị chuyên đề của các sở, ban, ngành Thành phố; niêm yết bản hướng dẫn các quy trình khai báo tạm trú, tạm vắng bằng tiếng nước ngoài… tại trụ sở UBND, Công an phường xã, thị trấn và tại các khu vực công cộng thuộc chung cư cao tầng; xây dựng, ký kết và tổ chức thực hiện các quy chế phối hợp giữa cơ quan chức năng đối với Ban Quản trị, tổ dân phố, chủ nhà có người nước ngoài tạm trú; thường trú. Đặc biệt, các chủ thể cần vận dụng triệt để khoa học – công nghệ để làm chủ công tác tuyên truyền, phổ biến, nhất là trên “không gian mạng”, phục vụ hiệu quả, bảo đảm an ninh trật tự trong nước với hội nhập trong “kỷ nguyên số”.

4. Kết luận

Trong thời gian tới, địa bàn thành phố Hà Nội sẽ tiếp tục có nhiều dự án khu đô thị mới được đầu tư xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đặc biệt gần dịp Tết Nguyên Đán, số lượng Việt Kiều hồi hương, người nước ngoài thăm thân, du lịch cư trú tại khu đô thị mới sẽ tăng lên, kèm theo đó là tiềm ẩn nhiều phức tạp, do vậy, việc thực hiện đồng bộ giải pháp trên có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thiện pháp luật liên quan quản lý cư trú người nước ngoài tại các khu đô thị mới góp phần tháo gỡ, điểm nghẽn về thể chế, khơi thông nguồn lực trong và ngoài nước nhằm thực hiện hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.

Chú thích:
1. Tội phạm người Hàn Quốc đang bị interpol truy nã sa lưới ở Hà Nội. Https://vov.vn/phap-luat/toi-pham-nguoi-han-quoc-dang-bi-interpol-truy-na-sa-luoi-o-ha-noi-post962528.vov.
2. VKS: Đế chế cho vay lãi cắt cổ của trùm nước ngoài gây mất an ninh tiền tệ. Https://vnexpress.net/vks-de-che-cho-vay-lai-cat-co-cua-trum-nuoc-ngoai-gay-mat-an-ninh-tien-te-4787146. html.
3. Dẫn giải 5 đối tượng bị truy nã người Hàn Quốc. Https://hanoionline.vn/video/dan-giai-5-doi-tuong-bi-truy-na-nguoi-han-quoc-246693.htm.
4. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
5. Quốc hội (2008). Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
6. Quốc hội (2014). Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019 và năm 2023).
7. Quốc hội (2017). Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
8. Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961.
9. Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963.
10. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR).
11. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR).
12. Quốc hội (2012). Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.