Nhận diện tài sản trí tuệ trong các làng nghề truyền thống

TS. Đào Cao Sơn
Trường Đại học Thương mại

(Quanlynhanuoc.vn) – Quản lý tài sản trí tuệ là nội dung quan trọng trong quá trình phát triển của các tổ chức, doanh nghiệp nói chung và phát triển thương hiệu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Để nâng cao hiệu quả quản lý tài sản trí tuệ, trước hết cần quan tâm tới nhận diện tài sản trí tuệ. Bài viết phân tích nội dung nhận diện các tài sản trí tuệ trong các làng nghề truyền thống thông qua áp dụng khung phân loại tài sản trí tuệ, bao gồm: nhóm các tài sản là đối tượng sở hữu trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập không cần đăng ký; nhóm các tài sản là các đối tượng sở hữu trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập thông qua đăng ký; nhóm tài sản thuộc nguồn vốn trí tuệ khác. 

Từ khóa: Tài sản trí tuệ; thương hiệu; nhận diện; làng nghề truyền thống.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số ngày càng phát triển mạnh mẽ, tài sản trí tuệ không chỉ đóng vai trò là nguồn lực cốt lõi giúp các cơ sở sản xuất – kinh doanh tại các làng nghề nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn là yếu tố quyết định đến quá trình tạo dựng vị thế thương hiệu trên thị trường. Nhiều công trình nghiên cứu và thực tiễn quản trị cho thấy, nhận diện và khai thác hiệu quả các tài sản trí tuệ giúp tối ưu hóa nguồn lực, tăng cường khả năng đổi mới sáng tạo, mở rộng cơ hội hợp tác và phát triển thương hiệu (Nguyễn Hữu Cẩn, 2018). Tuy nhiên, trong hầu hết các làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay, các cơ sở sản xuất – kinh doanh vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của tài sản trí tuệ cũng như vấn đề nhận diện tài sản trí tuệ. Điều này dẫn đến rất nhiều tài sản trí tuệ quan trọng và có giá trị, như: nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết hay thậm chí quyền tác giả… chưa được bảo vệ, quản lý và khai thác một cách hiệu quả. 

Thực trạng này không chỉ làm giảm cơ hội phát triển của các làng nghề mà còn tiềm ẩn nguy cơ mất mát tài sản và suy giảm lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cần nghiên cứu một cách hệ thống về quy trình và phương pháp nhận diện tài sản trí tuệ – tiền đề cho hoạt động quản lý tài sản trí tuệ sẽ được triển khai tiếp nối, từ đó, hỗ trợ các làng nghề phát triển hiệu quả và bền vững hơn.

2. Tiếp cận về tài sản trí tuệ và nhận diện tài sản trí tuệ

Thuật ngữ “tài sản trí tuệ” nói chung trong tiếng Anh thường được sử dụng là Intellectual Assets (IA). Có nhiều cách tiếp cận khác nhau liên quan đến nội hàm thuật ngữ tài sản trí tuệ. Về cơ bản, tiếp cận theo nghĩa rộng, đề cập đến tất cả các kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ của con người thì đều có thể là tài sản trí tuệ (có thể được bảo hộ độc quyền hoặc không) (Phạm Văn Anh, 2019). Trong khi đó, tiếp cận theo nghĩa hẹp, thì chỉ kết quả sáng tạo trí tuệ nào của con người đáp ứng các yêu cầu bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ, có trình độ sáng tạo trí tuệ nhất định mới được xác định là tài sản trí tuệ và được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Do đó, nhóm tài sản sản trí tuệ được pháp luật bảo hộ thường được gọi với thuật ngữ Intellectual Property (IP). Điều này lý giải vì sao trong các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ của các quốc gia thường sử dụng thuật ngữ Intellectual Property (IP) thay vì Intellectual Assets (IA). 

Các tài sản vô hình tồn tại ở dạng thức quyền tài sản là dấu hiệu nhận biết chính, nên tài sản trí tuệ (IA) thường được gắn với quyền sở hữu trí tuệ (IP). Tuy nhiên, tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp không chỉ là những tài sản được hình thành từ lao động sáng tạo và hoạt động trí tuệ của con người mà còn gồm cả những tài sản thuộc nguồn vốn trí tuệ khác. Có thể hiểu, tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp không chỉ là kết quả của quá trình sáng tạo mà còn là nguồn tiềm tàng để tạo ra kết quả đó. Một cách khái quát, tài sản trí tuệ (IA) là tài sản tồn tại dưới hình thức quyền tài sản và bao gồm các nhân tố trí tuệ mà doanh nghiệp, tổ chức có thể kiểm soát hoặc xác lập quyền sở hữu (Nguyễn Quốc Thịnh, Khúc Đại Long, Nguyễn Thu Hương, 2020)Do vậy, tài sản trí tuệ gồm các nhóm sau:

(1) Nhóm tài sản là các đối tượng sở hữu trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập không cần đăng ký tại các cơ quan quản lý về sở hữu trí tuệ (như tên thương mại, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu nổi tiếng);

(2) Nhóm tài sản là các đối tượng sở hữu trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập thông qua đăng ký (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu…).

(3) Nhóm tài sản thuộc nguồn vốn trí tuệ khác (nguồn lao động có tay nghề, các mối quan hệ, danh sách khách hàng…).

Nhận diện tài sản trí tuệ (Intellectual Asset Identification) là quá trình có hệ thống nhằm xác định, liệt kê và phân loại các tài sản trí tuệ mà doanh nghiệp hoặc tổ chức sở hữu, kiểm soát hoặc có thể xác lập quyền sở hữu. Quá trình này bao gồm việc tổ chức thông tin liên quan đến tài sản trí tuệ, xác định tính đủ điều kiện để bảo hộ; đồng thời, phân tích nguồn gốc, phạm vi ứng dụng, giá trị của các tài sản trong hoạt động kinh doanh và chiến lược phát triển của doanh nghiệp (Nguyễn Hữu Cẩn, 2020). Nhận diện tài sản trí tuệ không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các tài sản hiện có, như: sáng chế, nhãn hiệu, thiết kế công nghiệp hay quyền tác giả mà còn bao gồm cả việc tìm kiếm những tài sản chưa được khai thác triệt để hoặc tiềm năng giá trị trong tương lai. Nhận diện là bước đầu tiên và rất quan trọng trong quản lý tài sản trí tuệ, tạo ra cơ sở để tổ chức, doanh nghiệp có thể bảo vệ, phát triển và tối ưu hóa việc khai thác các tài sản nhằm phát triển thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh.

3. Thực trạng nhận diện tài sản trí tuệ trong các làng nghề truyền thống

Tính đến tháng 11/2023, cả nước hiện có khoảng 5.000 làng nghề, làng có nghề, trong đó có 1.342 làng nghề và làng nghề truyền thống được công nhận, tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc (Lê Đức Thịnh, 2023). Các làng nghề không chỉ được biết đến với nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo, chất lượng cao mà còn mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống. Tuy nhiên, có thể khẳng định, tài sản trí tuệ của các làng nghề hiện chưa được các chủ thể quan tâm, phần lớn các cơ sở sản xuất – kinh doanh trong làng nghề chưa hiểu rõ khái niệm và tầm quan trọng của tài sản trí tuệ trong kinh doanh cũng như trong phát triển thương hiệu.

Theo kết quả khảo sát 60 cơ sở sản xuất – kinh doanh tại một số làng nghề được lựa chọn nghiên cứu, như: Bát Tràng, Vạn Phúc, Hạ Thái, Đồng Kỵ… thì chỉ có khoảng 38/60 (63%) các cơ sở sản xuất – kinh doanh nhận biết được một số loại tài sản trí tuệ mà họ sở hữu. Một số tài sản trí tuệ mà họ thường nhận diện chủ yếu gồm: nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết sản xuất, danh sách khách hàng (hình 2). Như vậy, còn rất nhiều tài sản trí tuệ mà các doanh nghiệp làng nghề có nhưng họ lại chưa nhận diện, như: các kế hoạch sản xuất – kinh doanh, kế hoạch truyền thông, danh sách khách hàng, quyền tác giả, đội ngũ lao động với khả năng sáng tạo, mối quan hệ với nhà cung cấp… Thậm chí, 9/60 (15%) cơ sở sản xuất – kinh doanh vẫn coi tài sản trí tuệ là khái niệm xa lạ và cho rằng không cần thiết trong hoạt động kinh doanh, phát triển thương hiệu.

Với nhận thức như vậy, các hoạt động trong quy trình nhận diện tài sản trí tuệ từ lập danh sách, phân loại và tổ chức thông tin, xác định tính hợp pháp và khả năng bảo hộ cho tới đánh giá phạm vi ứng dụng của các tài sản trí tuệ hầu như chưa được triển khai. Do đó, rất ít cơ sở sản xuất – kinh doanh tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ, thường chỉ tập trung cho nhãn hiệu. Việc đăng ký cho kiểu dáng công nghiệp hay thiết lập các biện pháp bảo vệ cho các tài sản trí tuệ khác hầu như chưa được quan tâm.

Đối với nhãn hiệu: một số làng nghề đã bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng và đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm. Theo kết quả từ tra cứu dữ liệu của Cục Sở hữu trí tuệ và khảo sát tại nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống cho thấy, chỉ có một số ít làng nghề đã đăng ký nhãn hiệu tập thể, trong khi có một số lượng khá lớn (khoảng hơn 40% làng nghề) vẫn chưa đăng ký. Số lượng nhãn hiệu được đăng ký còn ít so với tiềm năng và chưa khai thác hết giá trị của nhãn hiệu trong việc xây dựng thương hiệu và cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, tỷ lệ các cơ sở sản xuất – kinh doanh đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ, mà điển hình là nhãn hiệu cũng rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp tại các làng nghề, như: Bát Tràng, Đồng Kỵ, Hạ Thái… chưa đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Số cơ sở sản xuất – kinh doanh đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chỉ chiếm khoảng 28% (17/60) số cơ sở được khảo sát. 

Về kiểu dáng công nghiệp: kiểu dáng công nghiệp là tài sản trí tuệ ít được quan tâm hơn trong các làng nghề do quá trình đăng ký phức tạp, tốn kém và đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Tuy nhiên, trong một số ngành nghề có tính đổi mới cao, như: chế tác đồ gỗ mỹ nghệ, gốm sứ đã xuất hiện một số kiểu dáng công nghiệp được đăng ký. Tại các làng nghề, kiểu dáng sản phẩm mới thường bị sao chép rất nhanh chóng và tùy tiện. Phỏng vấn 10 chủ cơ sở sản xuất – kinh doanh tại các làng nghề cho thấy, đây là tình trạng rất phổ biến và bản thân họ chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Nhiều cơ sở sản xuất- kinh doanh, đặc biệt là các hộ kinh doanh nhỏ, lẻ chưa hiểu rõ về tầm quan trọng của bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. 

 Bảo vệ bí mật kinh doanh và các tài sản trí tuệ: cùng với nhãn hiệu, bí mật kinh doanh là loại tài sản trí tuệ phổ biến nhất trong các làng nghề, bao gồm các bí quyết nghề, công thức chế biến, quy trình, kỹ thuật sản xuất được truyền từ đời này sang đời khác, các kế hoạch hoạch kinh doanh, marketing… Tuy nhiên, việc bảo vệ bí mật kinh doanh gặp nhiều khó khăn do nhận thức còn hạn chế và thiếu hụt các biện pháp bảo mật hiệu quả. Theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh sẽ tự động được bảo hộ nếu các cơ sở kinh doanh có áp dụng những biện pháp bảo mật nhất định.Tuy nhiên, khảo sát 60 cơ sở trong các làng nghề thì có đến 45 cơ sở cho biết không có bí mật gì (ngoài một vài bí quyết riêng trong sản xuất, như: công thức men cho gốm, cách gia nhiệt khi nung sản phẩm gốm hoặc khi rèn, đúc…), vì vậy, hầu hết các cơ sở không áp dụng những biện pháp bảo mật. Chính điều này dẫn đến những mâu thuẫn giữa các cơ sở khi mà công thức hoặc bí quyết bị tiết lộ bởi người lao động hoặc bị tiếp cận trái phép.

Việc nhận diện tài sản trí tuệ tại các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đang gặp nhiều hạn chế, trong đó có nhận thức của các doanh nghiệp và nghệ nhân về tầm quan trọng của tài sản trí tuệ còn hạn chế. Nhiều chủ doanh nghiệp chưa hiểu rõ giá trị của nhận diện và quản lý tài sản trí tuệ dẫn đến tâm lý chủ quan và ngại thay đổi. Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính và nhân sự của các làng nghề còn hạn chế, sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước hiện chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Các thủ tục đăng ký bảo hộ còn phức tạp, thời gian kéo dài, các chương trình tập huấn, tư vấn về sở hữu trí tuệ chưa hiệu quả. Ngoài ra, các nghệ nhân và người lao động tại làng nghề thường coi trọng giá trị truyền thống hơn vấn đề pháp lý, dẫn đến việc các bí quyết, quy trình sản xuất thường được lan truyền qua các thế hệ mà không được ghi chép hay quản lý. Những nguyên nhân này không chỉ làm giảm khả năng cạnh tranh mà còn hạn chế cơ hội phát triển bền vững của các làng nghề, đòi hỏi các giải pháp mạnh mẽ từ nhiều phía để khắc phục.

4. Một số giải pháp

Một là, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tài sản trí tuệ đối với các doanh nghiệp làng nghề. Cần tổ chức các chương trình đào tạo, hội thảo và hội nghị chuyên đề về sở hữu trí tuệ cho các chủ doanh nghiệp, nghệ nhân và cộng đồng làng nghề. Những khóa học này nên cung cấp thông tin chi tiết về các loại tài sản trí tuệ, như: nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý và các thủ tục đăng ký bảo vệ tài sản trí tuệ. 

Hai là, sự hỗ trợ của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương. Các cơ sở của làng nghề cần được hỗ trợ về tài chính, thủ tục để có thể thực hiện đăng ký các tài sản trí tuệ. Một trong những rào cản lớn đối với việc nhận diện tài sản trí tuệ là các thủ tục pháp lý còn phức tạp và tốn thời gian. Cần hướng dẫn cho các cơ sở sản xuất – kinh doanh trong làng nghề về quy trình đăng ký bảo hộ cho tới bảo vệ các tài sản trí tuệ bằng các biện pháp khác nhau để giúp các làng nghề tiết kiệm thời gian và chi phí. Có thể xây dựng các hướng dẫn chi tiết về thủ tục đăng ký một số đối tượng sở hữu trí tuệ cụ thể, thường có trong các làng nghề, giúp doanh nghiệp dễ dàng thực hiện và giảm bớt những khó khăn khi tiếp cận các dịch vụ sở hữu trí tuệ.

Ba là, tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ. Công nghệ số có thể giúp các làng nghề quản lý và bảo vệ tài sản trí tuệ hiệu quả hơn. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các tài sản trí tuệ của các cơ sở sản xuất – kinh doanh trong làng nghề sẽ giúp dễ dàng theo dõi và quản lý. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần áp dụng các công cụ trực tuyến để đăng ký và quảng bá sản phẩm, từ đó, tăng cường khả năng bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ. Các công nghệ blockchain hoặc phần mềm quản lý sở hữu trí tuệ có thể hỗ trợ việc ghi nhận, theo dõi và bảo vệ quyền lợi của các sản phẩm làng nghề trên môi trường internet.

Bốn là, tăng cường sự hợp tác giữa các chủ thể trong nhận diện, quản lý tài sản trí tuệ. Để phát huy hiệu quả bảo vệ tài sản trí tuệ, các doanh nghiệp làng nghề cần hợp tác với nhau trong việc xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý hoặc các hình thức bảo vệ tài sản trí tuệ khác. Việc hợp tác này giúp các làng nghề có thể chia sẻ chi phí và nguồn lực trong quá trình nhận diện và đăng ký tài sản trí tuệ; đồng thời, tăng cường sự đoàn kết, cùng nhau đối phó với vấn nạn hàng giả, sao chép sản phẩm. Ngoài ra, các chính sách và chương trình hỗ trợ từ Nhà nước cần được nâng cao và mở rộng hơn nữa. Cơ quan nhà nước có thể tạo ra các quỹ hỗ trợ cho việc nghiên cứu và phát triển tài sản trí tuệ cho các làng nghề; đồng thời, tổ chức các chương trình đào tạo cho cán bộ quản lý sở hữu trí tuệ tại các hiệp hội làng nghề. Các tổ chức quốc tế có thể hợp tác với các tổ chức trong nước để tạo ra các nền tảng và công cụ hỗ trợ cho việc nhận diện và bảo vệ tài sản trí tuệ cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống.

5. Kết luận

Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, tài sản trí tuệ đã trở thành yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh và khẳng định vị thế trên thị trường. Việc nhận diện tài sản trí tuệ mở ra những cơ hội phát triển từ các tài sản tiềm năng chưa được khai thác. Thông qua quá trình nhận diện này, các làng nghề truyền thống có thể xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện, từ đó, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, gia tăng giá trị thương mại hóa, thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo và phát triển thương hiệu.

Tài liệu tham khảo: 
1. Phạm Văn Anh (2019). Tạo lập, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai. Tạp chí Khoa học Công nghệ và Môi trường, số 6/2019.
2. Nguyễn Hữu Cẩn (2018). Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 7/2018.
3. Nguyễn Hoàng Hạnh, Bùi Khánh Linh, Đỗ Thiên Hoàng (2020). Một số yếu tố tác động tới hệ thống sở hữu trí tuệ quốc gia trong bối cảnh mới. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 5/2020.
4. Nguyễn Thu Hương, Khúc Đại Long (2023). Intellectual property management – recommendations for banking sector in Vietnam. Journal of Finance and Accounting Research, số 5/2023
5. Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn. https://langngheviet.com.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-lang-nghe-nganh-nghe-nong-thon-29001.html
6. Lê Nết (2006). Tài liệu tập huấn quyền sở hữu trí tuệ. H. NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
7. Nguyễn Quốc Thịnh, Khúc Đại Long, Nguyễn Thu Hương (2020). Quản trị tài sản trí tuệ trong các doanh nghiệp Việt Nam – động lực cho sự khác biệt hóa. Tạp chí Khoa học thương mại, số 143/2020.
8. Truyền thông thương hiệu làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam.https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/10/27/truyen-thong-thuong-hieu-lang-nghe-thu-cong-my-nghe-truyen-thong-o-viet-nam