TS. Trần Thị Hải Yến
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu là một vấn đề có tính thời sự mà Việt Nam và các quốc gia trên thế giới quan tâm trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, khu vực và quốc tế. Việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số giúp xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp được tốt hơn, tăng lòng trung thành của người lao động với doanh nghiệp. Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu chuyên sâu về chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Từ khóa: Chính sách việc làm, bền vững, chuỗi cung ứng toàn cầu.
1. Đặt vấn đề
Chuỗi cung ứng toàn cầu là quá trình biến đổi nguyên liệu thô thành sản phẩm cuối cùng, thường xảy ra ở một số quốc gia khác nhau, chuyển sản phẩm và dịch vụ từ nhà sản xuất sang người tiêu dùng1. Trong bối cảnh mới, có nhiều thời cơ cũng như những thách thức cần hoàn thiện khung khổ pháp lý về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính phủ cần tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp tạo việc làm bền vững cho người lao động. Các doanh nghiệp cần thực hiện các chính sách lao động an toàn, công bằng, tạo điều kiện cho người lao động phát triển về đời sống vật chất và tinh thần. Người lao động cần chủ động hoà nhập, nâng cao kiến thức về việc làm bền vững đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước. Phát triển bền vững đang trở thành mục tiêu chung của hầu hết các quốc gia2. Nỗ lực tạo việc làm thỏa đáng và bền vững cho người dân là ưu tiên của Việt Nam góp phần bảo đảm quyền con người, đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và hướng đến một xã hội công bằng hơn3. Quan niệm “việc làm bền vững là tạo cơ hội cho nam giới, nữ giới có được việc làm ổn định, năng suất, trong điều kiện tự do, bình đẳng và bảo đảm nhân phẩm” lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1999 trong Báo cáo của Tổng Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)4.
Tháng 9/2015, Hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững của Liên hiệp quốc đã đưa ra bộ tiêu chí gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững và được các nhà lãnh đạo trên thế giới thông qua. Trong đó, có nội dung có liên quan đến việc làm bền vững, (mục tiêu số 8: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, rộng mở và bền vững, việc làm đầy đủ và năng suất và công việc tốt cho tất cả mọi người). Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 về phát triển bền vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện và ưu tiên phát triển của quốc gia để thực thi 17 mục tiêu phát triển bền vững. Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hànhKế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Bảng 1: Nội dung cụ thể Quyết định số 622/QĐ-TTg5 về việc làm bền vững
Tên mục tiêu | Nội dung |
Mục tiêu 8.1 | Duy trì tăng trưởng GDP bình quân đầu người 4 – 4,5%/năm và tăng trưởng GDP hàng năm trung bình từ 5 – 6% |
Mục tiêu 8.2 | Tăng năng suất lao động thông qua đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cấp và đổi mới công nghệ, tập trung vào các ngành tạo giá trị tăng cao và sử dụng nhiều lao động. |
Mục tiêu 8.3 | Tăng cường các chính sách hỗ trợ các hoạt động sản xuất có năng suất cao, tạo việc làm tốt và bền vững, hỗ trợ làm chủ doanh nghiệp, phát minh và sáng tạo; chính thức hóa và tăng trưởng các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, gồm cả thông qua việc tiếp cận với các dịch vụ tài chính. |
Mục tiêu 8.4 | Đến năm 2030, tăng dần hiệu quả sử dụng nguồn lực trong sản xuất và tiêu thụ, giảm tác động của tăng trưởng kinh tế lên môi trường, phù hợp với Khung Chương trình 10 năm về sản xuất và tiêu dùng bền vững của Việt Nam. |
Mục tiêu 8.5 | Đến năm 2030, tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả nam và nữ, bao gồm cả thanh niên, người khuyết tật và thù lao ngang bằng đối với các loại công việc như nhau. |
Mục tiêu 8.6 | Đến năm 2030, giảm đáng kể tỷ lệ thanh niên không có việc làm, không đi học hoặc đào tạo. Chủ động thực hiện hiệu quả Hiệp ước Việc làm toàn cầu của ILO. |
Mục tiêu 8.7 | Thực hiện kịp thời và hiệu quả các biện pháp để xóa bỏ lao động ép buộc, chấm dứt nạn buôn người và nô lệ hiện đại; ngăn chặn và xóa bỏ lao động trẻ em dưới mọi hình thức. |
Mục tiêu 8.8 | Bảo vệ quyền lao động; đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho tất cả người lao động, đặc biệt là lao động nữ di cư và lao động làm trong khu vực phi chính thức. |
Khung việc làm bền vững của Việt Nam khá tương thích với khung của Liên Hiệp quốc. Việt Nam cũng đã phê chuẩn 7 trên 8 Công ước của ILO, Công ước số 100 về trả công bình đẳng (1949); Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức (1957); Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử (1961); Công ước số 182 về hình thức lao động trẻ em (1999); Công ước số 29 về lao động cưỡng bức (1930); Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể (1949); Công ước số 88 về dịch vụ việc làm (1948). Từ đó nhấn mạnh, Việt Nam cam kết thực hiện có trách nhiệm việc làm bền vững trong bối cảnh chuyển đổi.
Mục tiêu của các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hiệp quốc về kinh doanh và quyền con người (UNGPs) yêu cầu các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp kinh doanh khác của các quốc gia trên thế giới tôn trọng quyền con người một cách có trách nhiệm, ngăn chặn, giải quyết và khắc phục các hành vi vi phạm quyền con người trong hoạt động kinh doanh. UNGPs bao gồm 31 nguyên tắc, bao gồm 8 nguyên tắc nền tảng và 23 nguyên tắc hoạt động, bao gồm ba trụ cột cơ bản thực hiện khuôn khổ “Bảo vệ, tôn trọng và khắc phục”, UNGPs được xây dựng dựa trên:
(a) Các nghĩa vụ hiện có của các Quốc gia trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ bản;
(b) Vai trò của doanh nghiệp kinh doanh với tư cách là cơ quan chuyên môn của xã hội thực hiện các chức năng chuyên biệt, được yêu cầu tuân thủ tất cả các luật hiện hành và tôn trọng quyền con người;
(c) Sự cần thiết của các quyền và nghĩa vụ để có các biện pháp xử lý thích hợp và hiệu quả khi bị vi phạm6.
UNGPs đã chi tiết hoá hàm ý các điều khoản có liên quan đến các tiêu chuẩn quyền con người quốc tế hiện hành, và một trong số đó có ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia và cung cấp hướng dẫn hoạt động. Nhiều quốc gia hoặc tổ chức khu vực đã thông qua kế hoạch hành động về kinh doanh và quyền con người7. UNGPs quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền con người trong đó có quyền lao động, quyền việc làm bền vững.
Cả ba quốc gia (Hoa Kỳ, Đức, Trung Quốc) đều có luật nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử tại nơi làm việc dựa trên các yếu tố như giới tính, chủng tộc, tôn giáo và khuyết tật… Các quy định chống quấy rối và bắt nạt tại nơi làm việc thúc đẩy một môi trường làm việc hòa nhập và tôn trọng hơn giữa người với người. Đồng thời, các quốc gia đều quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm những yếu tố trên8. Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật dựa trên quan điểm nhất quán là phát triển toàn diện, bao trùm và bền vững bảo đảm quyền con người.
Việc làm bền vững cũng đề cập đến khả năng của con người nhằm đạt được hoặc duy trì chất lượng công việc trong suốt cuộc đời làm việc của họ, và để có cơ hội và bối cảnh làm việc phù hợp để có thể chuyển giao tri thức, kỹ năng và khả năng sang một công việc, tổ chức hoặc vai trò tương lai khác. Ngoài ra, việc làm bền vững đề cập đến cam kết của tổ chức trong việc cân bằng giữa các yêu cầu phúc lợi và công việc của các thành viên lực lượng lao động9.
Theo mục 3.1. Thuật ngữ và định nghĩa, tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13106:2020 (ISO/TR 30406:2017) việc làm bền vững là khả năng có được hoặc tạo lập và duy trì công việc lâu dài. Chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu kế hoạch hoặc hành động của Chính phủ hoặc các chủ thể có liên quan với mục đích cải thiện khả năng và duy trì công việc lâu dài bảo đảm quyền con người. Chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu có mục tiêu lấy con người làm trung tâm, là giá trị cốt lõi trong toàn bộ chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về việc làm. Chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu mang tính nhân đạo sâu sắc, hướng tới phát triển toàn diện con người, đặc biệt là không ai bị bỏ lại ở phía sau, nhất là những nhóm việc làm người lao động dễ bị tổn thương như người khuyết tật, người dân tộc thiểu số ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, việc làm cho nhóm người lao động ở nông thôn, việc làm cho nhóm người lao động di cư…
Chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu bảo đảm thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số. Chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu cần có những hành động, dự án kế hoạch cụ thể về cơ chế hoạt động, bộ máy nhân sự, chương trình dự án đặc thù, nguồn kinh phí cần và đủ để thực hiện mục tiêu của chính sách.
3. Nội dung cốt lõi chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Thứ nhất, việc làm đầy đủ, điều kiện lao động bảo đảm, bình đẳng, có cơ hội phát triển năng lực cá nhân.
Quyền việc làm đầy đủ đã được ghi nhận trong Hiến pháp là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo khoản 1 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Điều 57 Hiến pháp năm 2013 quy định:“1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. 2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện, đề ra các chính sách việc làm bền vững.
Khoản 3, 4 Điều 4 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “3. Tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động tạo việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm; hoạt động sản xuất, kinh doanh thu hút nhiều lao động; áp dụng một số quy định của Bộ luật này đối với người làm việc không có quan hệ lao động. 4. Có chính sách phát triển, phân bố nguồn nhân lực; nâng cao năng suất lao động; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động; hỗ trợ duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao động; ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Điểm c khoản 2 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động”. Điểm c khoản 2 Điều 6 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “c) Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nhằm duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao động; d) Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng và thực hiện các giải pháp phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc”.
Điều 10 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Quyền làm việc của người lao động. 1. Được tự do lựa chọn việc làm, làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. 2. Trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khỏe của mình”. Điều 158 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:“Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người lao động là người khuyết tật; có chính sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với người sử dụng lao động trong tạo việc làm và nhận người lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định của pháp luật về người khuyết tật”.
Luật Việc làm năm 2013 quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm; thông tin thị trường lao động; đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm; bảo hiểm thất nghiệp và quản lý nhà nước về việc làm. Khoản 1 Điều 33 Luật Người khuyết tật quy định việc làm đối với người khuyết tật: “Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật”. Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ hướng dẫn Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Thứ hai, an sinh xã hội, an toàn lao động.
Điều 34 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”.
Thứ ba, đối thoại.
Theo khoản 1 Điều 63 Bộ luật Lao động năm 2019, “đối thoại tại nơi làm việc là việc chia sẻ thông tin, tham khảo, thảo luận, trao đổi ý kiến giữa người sử dụng lao động với người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích và mối quan tâm của các bên tại nơi làm việc nhằm tăng cường sự hiểu biết, hợp tác cùng nỗ lực hướng tới giải pháp các bên cùng có lợi”.
Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ hướng dẫn Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động, quy định chi tiết thành phần, địa điểm đối thoại lao động. Khoản 2 Điều 15 Chương II Nghị định số 12/2022/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam ở nước ngoài theo hợp đồng quy định: “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau: không tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc; không thực hiện đối thoại khi có yêu cầu; không phối hợp tổ chức hội nghị người lao động theo quy định của pháp luật”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 đáp ứng yêu cầu thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phát triển nhanh và bền vững.
Theo đó, các trung tâm xúc tiến việc làm đã tập trung chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong mọi hoạt động; chủ động, kịp thời cập nhật thông tin thị trường lao động, theo dõi, đăng tải thông tin lên website; thu thập thông tin của các tổ chức, cá nhân đến đăng ký tuyển lao động và người lao động tìm việc làm. Chẳng hạn, trên trang web của Trung tâm Xúc tiến việc làm tỉnh Lạng Sơn, đã có 61.445 lượt, số bài viết đăng tải là 274 tin, bài tại các trang truyền thông của đơn vị. Đặc biệt, trong quý II/2023 với sự chủ động, sáng tạo, đơn vị đã đưa vào khai thác và sử dụng quét mã QR code trên nền tảng công nghệ số để phục vụ người dân và các nhà tuyển dụng trong kết nối việc làm. Kết quả, số lượt doanh nghiệp tuyển dụng truy cập là 485 lượt, trong đó có 39 lượt quét mã. Số lượt ứng viên tìm việc làm truy cập là 6.691 lượt, trong đó có 769 người quét mã. Việc ứng dụng quét mã QR code cho đơn vị tuyển dụng và ứng viên tham gia tìm kiếm việc làm là một trong những cách triển khai thực hiện rất có hiệu quả, có sức lan tỏa sâu rộng và phù hợp với xu thế hiện nay – xu thế về chuyển đổi số xanh10.
Ngoài ra, Việt Namđang trong tiến trìnhchuyển đổi sang nền kinh tế có mức thu nhập bậc trung. Việt Nam đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA. Việc ký kết và tham gia các FTA thế hệ mới sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, theo đó, kim ngạch xuất, nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng11. Nhà nước đang đẩy mạnh phát triển những ngành kinh tế mới như kinh tế xanh, kinh tế số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong lao động… có khả năng tạo ra nhiều việc làm bền vững có chất lượng cao, đặc biệt là các ngành nghề có tính đổi mới, sáng tạo.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội”. Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách tạo công ăn, việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số, người khuyết tật và tạo nghề cho lao động nông thôn. Nhà nước ta đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu, như: Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Việc làm năm 2013, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)… quy định quyền có việc làm của con người, quyền được an toàn lao động, quyền được hưởng chế độ bảo hiểm, quyền được tiền lương và chế độ đãi ngộ, đối thoại trong quá trình lao động… Đa phần, các văn bản quy phạm pháp luật đã được thực thi nghiêm minh trong cuộc sống.
Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập đã thúc đẩy các doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp luật lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, thực hiện nghiêm các quy định về bảo hiểm xã hội cho người lao động… Nhận thức của doanh nghiệp và người lao động về vai trò của việc làm bền vững ngày càng được nâng cao. Các doanh nghiệp đã có những chiến lược sử dụng nhân tài bằng các chế độ đãi ngộ thích đáng, như: Tập đoàn FPT, Tập đoàn Sun Group… hạn chế được tình trạng nhảy việc của người lao động.

Năm 2023, cả nước có gần 1,07 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Quý I/2024, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vừa công bố số liệu và cho biết thêm, tỷ lệ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn là 12,8%; khu vực thành thị là 8,3%; nữ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo là 12,5%; nam là 9,7%. Trong quý I/2024, tổng số lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên tại Việt Nam ước tính 52,4 triệu người; giảm hơn 137.000 người so với quý IV/2023. chất lượng hạn chế, chưa đáp ứng cho nhu cầu lao động của thị trường hiện nay; gần 38 triệu lao động tại Việt Nam chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên; thị trường lao động quý I vẫn còn những khó khăn khi tỷ lệ người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gia tăng. Họ là những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ, sẵn sàng làm thêm giờ.
Cụ thể, trong quý I/2024 có 933.000 người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, tăng 26,4 nghìn người so với quý trước và tăng 47,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 2,03%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,09 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 1,2%; khu vực nông thôn là 2,58%14.
Số người lao động đang làm việc có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động chưa có sự cải thiện về chất lượng lao động khi số lao động làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn có xu hướng tăng lên. Số người có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản)15.
Thị trường lao động đang tồn tại nghịch lý rằng nhiều người thất nghiệp hoặc mất việc làm, thế nhưng nhiều doanh nghiệp không tuyển dụng được lao động theo ý muốn. Lao động khu vực phi chính thức (lao động tự do) ngày càng cao. Nhân lực phân bố không đồng đều giữa các khu vực, ngành kinh tế, làm mất cân đối nhu cầu nhân lực và nhu cầu việc làm. Hiện quy mô đào tạo lao động kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, thua rất nhiều so với quy mô đào tạo trình độ cao đẳng, đại học. Tình hình vi phạm pháp luật lao động còn nhiều, khi thanh tra hay có quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì doanh nghiệp vẫn không chấp hành, nhất là xử phạt liên quan nợ bảo hiểm xã hội. Công tác dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động, giao dịch việc làm (tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động) còn chưa hiệu quả16.
Trong quá trình chuyển đổi số, các hệ thống tự động hóa sẽ dần thay thế công việc thủ công nhưng khả năng tiếp cận việc làm mới ít nhiều bị hạn chế do lực lượng lao động cả nước không đủ trình độ và trang bị kỹ năng cần thiết. Tỷ lệ lao động có kỹ năng trong lực lượng lao động của Việt Nam vẫn còn thấp và số lượng sinh viên theo học các chương trình giáo dục sau đại học không đủ để lấp đầy khoảng trống. Theo đánh giá thống kê của Tập đoàn Công nghệ CMC, nhu cầu về nguồn nhân lực số rất cao, nhưng các trường đại học mới đáp ứng khoảng 25% nhu cầu và về chất lượng chỉ đáp ứng 30% yêu cầu đề ra. Tỷ lệ lao động Việt Nam có trình độ kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp dưới 30% và chỉ có khoảng 10% lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay theo đánh giá của World Bank. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt xấp xỉ 66%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt 26,1%. Sự không phù hợp về kỹ năng có thể làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng vì nhân viên cần có kỹ năng phù hợp để tận dụng lợi thế của công nghệ kỹ thuật số17.
Việc thực thi pháp luật về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực và sự phối hợp giữa các bên liên quan. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc làm bền vững và chưa có cam kết thực hiện. Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến thị trường lao động và cơ hội việc làm bền vững.
4. Một số khuyến nghị chính sách
Thứ nhất, về phía Chính phủ.
Ứng dụng khoa học – công nghệ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo đang trở thành xu hướng phát triển bền vững của nước ta và các quốc gia trên thế giới. Tiểu mục 3 Mục III Nghị quyết số 06/2023/NQ-CP, Chính phủ đã đề ra một số giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm bao gồm: “Tăng cường đầu tư, phát triển các ngành kinh tế tạo nhiều việc làm bền vững. Tập trung thực hiện các giải pháp để phân luồng, nâng cao chất lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tổ chức đào tạo, cung ứng kịp thời nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ”. Nhà nước rất quan tâm đến chính sách việc làm bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ cần đề ra chính sách ứng dụng công nghệ số vào trong quá trình quản trị doanh nghiệp.
Nghiên cứu về tái định hình tương lai của ngành công nghiệp năm 2023 cho thấy, có tới 76% số giám đốc điều hành tin rằng các công nghệ mới đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí thải carbon. Trong đó, 74% cho là tác động môi trường của các công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng cần cân nhắc trong kế hoạch chuyển đổi số của họ. Và hiện tại, các doanh nghiệp đang ngày càng đào sâu nghiên cứu tận dụng các công nghệ mới như 5G và IoT để thực hiện các mục tiêu ESG (môi trường – xã hội – quản trị) và đã nhận được nhiều lợi ích khi đầu tư vào các lĩnh vực này. Tầm quan trọng của công nghệ với chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp được thể hiện trên sáu khía cạnh18. Do vậy, Chính phủ cần hỗ trợ thể chế, chính sách để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn cao về công tác nhân sự, quản trị nguồn nhân lực và chất lượng người lao động có chuyên môn cao về kiến thức chuyển đổi số.
Đầu tư phát triển hệ thống kết nối cung – cầu lao động, công tác dự báo cung – cầu lao động và hệ thống thông tin thị trường lao động với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động hiện đại, đồng bộ, có sự kết nối, chia sẻ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội. Hỗ trợ phát triển lưới an sinh và bảo hiểm cho người lao động”. Đây là một trong những chính sách hữu hiệu về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cần khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp trong ngành công nghệ số, cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn thực hiện chuyển đổi số liên quan đến chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hoàn thiện chính sách pháp luật về việc làm bền vững, thu hút vốn đầu tư đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Vấn đề then chốt không còn là tạo ra thêm nhiều việc làm mới mà cần thúc đẩy các việc làm chất lượng và bền vững, bảo đảm các tiêu chí về điều kiện làm việc, quyền của người lao động, đặc biệt là ưu tiên cải thiện chất lượng việc làm trong nhóm việc làm dễ bị tổn thương19. Cần tiến bộ hơn nữa để tăng cơ hội việc làm, đặc biệt là cho những người trẻ tuổi, giảm việc làm không chính thức và khoảng cách về giới và thúc đẩy môi trường làm việc an toàn để tạo ra công việc tốt cho tất cả mọi người20.
Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho người dân ở nông thôn, người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ đào tạo nghề cho người khuyết tật hoà nhập trong cuộc sống, hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động khu vực không chính thức. Nhà nước cần thúc đẩy chính sách hỗ trợ việc làm cho thanh niên khu vực nông thôn. Nhà nước cần đưa ra nhiều mô hình kinh doanh bền vững, bảo vệ môi trường. Nhà nước cần có các biện pháp khen thưởng, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hành tốt việc bảo đảm việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp thực hành tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Hỗ trợ giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp về chính sách việc làm trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư về chính sách việc làm trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về an toàn lao động, bảo hiểm xã hội… và các nội dung có liên quan đến việc làm bền vững trong doanh nghiệp.
Thứ hai, về phía doanh nghiệp.
Cần áp dụng công nghệ số vào trong quản trị doanh nghiệp bảo đảm việc làm bền vững. Cần có chiến lược đổi mới chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Cần thực hành việc làm cho người lao động về kỹ năng số. Bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh lao động, thu nhập bình đẳng và chế độ phúc lợi tốt cho người lao động trong doanh nghiệp thực thi việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuân thủ các quy định về đăng ký bảo hiểm cho người lao động, điều kiện an toàn lao động, tiền lương trên mức tối thiểu bảo đảm đủ sống, quan tâm đến phúc lợi cho người lao động có hoàn cảnh hoá khăn, hỗ trợ đặc biệt cho người lao dộng trong một số ngành nghề nặng nhọc, nguy hiểm.
Việc làm bền vững giúp doanh nghiệp thực hành tốt trong việc bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức giảm thiểu rác thải, khí thải và ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên như nước, năng lượng, nguyên liệu thô… Thúc đẩy đào tạo người lao động tại chỗ tạo ra việc làm bền vững. Tăng cường vai trò của doanh nghiệp sử dụng lao động trong việc đào tạo nghề, gắn việc học nghề với thực hành tại doanh nghiệp nhằm bám sát nhu cầu của thị trường lao động. Tham gia cam kết về việc làm bền vững, thực hành tốt các tiêu chuẩn việc làm bền vững như Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13106:2020 (ISO/TR 30406:2017).
Thứ ba, về phía người lao động.
Tuân thủ các quy định pháp luật an toàn, vệ sinh lao động, nâng cao ý thức pháp luật, ý thức phòng chống tai nạn lao động. Cần chủ động tìm hiểu và thực hành tốt các quy định pháp luật có liên quan đến việc làm bền vững trong quá trình lao động. Cần nâng cao năng lực số trong bối cảnh thực hành chính sách việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cần khuyến khích kỹ năng mềm cho người lao động như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý và tổ chức công việc.
Cần nhận thức rõ các xu hướng cạnh tranh trên thị trường lao động để chủ động trau dồi chuyên môn, trình độ về chuyển đổi số. Nắm bắt các xu hướng phát triển trong tương lai về trí tuệ nhân tạo, hoàn thiện kỹ năng nghề, xu hướng nghề nghiệp xanh, bền vững cho tương lai. Cần chủ động nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng làm việc hiện đại để công ty, doanh nghiệp đưa vào chiến lược sử dụng nhân tài của họ.
5. Kết luận
Khung khổ pháp lý về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số đòi hỏi cần có sự cam kết và nỗ lực của tất cả các bên, bao gồm, nhà nước, doanh nghiệp, người lao động và các bên có liên quan. Thực hành tốt chính sách về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu thúc đẩy việc bảo vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo ra một tương lai bền vững cho thế hệ tương lai trong các quan hệ pháp luật lao động về việc làm bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Thiết nghĩ, đó là một trong những chìa khóa quan trọng nâng tầm thế của Việt Nam sánh vai với các quốc gia phát triển trên thế giới.
Chú thích:
1. Rickey, Glenn; Roath, Anthony; Whipple, Judith; Fawcett, Stanley (2010). “Exploring a Governance Theory of Supply Chain Management: Barriers and Facilitators to Integration”. Journal of Business Logistics. 31 (1): 237 – 256.
2. Cai and Choi (2020). A United Nations’ sustainable development goals perspective for sustainable textile and apparel supply chain management, Transport. Res. Part E: Logist. Transport. Rev., 141 (2020), p. 102010.
3. Minh Anh (2022). Thúc đẩy việc làm bền vững cho người dân, bảo đảm quyền con người, https://nhandan.vn, truy cập ngày 03/7/2024.
4. Báo cáo của Tổng Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại cuộc họp của Hội nghị Lao động Quốc tế kỳ họp thứ 87. https://www.ilo.org/public/libdoc/ilo/P/09605/09605(1999-87).pdf, truy cập ngày 10/01/2024.
5. Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
6. UN Framework and the Global Compact. Guiding Principles on Business and Human Rights. www.ohchr.org/ Documents/Publications/GuidingPrinciplesBusinessHR_EN.pdf.
7. Khuyến nghị CM/Rev (2016)/3 của Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu về doanh nghiệp và nhân quyền, Phụ lục, các đoạn 10-12. https://tbinternet.ohchr.org/_layouts/15/ treatybodyexternal/Download.aspx?symbolno=E/C.12/GC/24&Lang=en.
8. Phạm Mỹ Anh & Cát Ngọc Linh Chi (2024). Pháp luật về việc làm bền vững của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật kỳ 1 (số 398), tháng 2/2024.
9. PIT S.W., & HAYDON T. 15 January (2013). Sustainable employment and the ageing workforce: lessons learned from the Dutch. The Conversation. Available at: http://theconversation.com/ sustainable-employment-and-the-ageing-workforce-lessons-learned-from-the-dutch-10603 (Việc làm bền vững và lực lượng lao động già hóa: bài học từ Hà Lan).
10. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp kiến tạo việc làm bền vững. https://daibieunhandan.vn, truy cập ngày 10/8/2024.
11. Tạp chí Tài chính (2019). Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam. https://tapchitaichinh.vn,truy cập ngày 03/7/2024.
12, 13. Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động việc làm quý iv và năm 2023. https://www.gso.gov.vn, truy cập ngày 03/7/2024.
14. Hoàn thiện chính sách, thúc đẩy việc làm bền vững, https://daibieunhandan.vn, truy cập ngày 03/7/2024.
15. Lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong khu vực hộ nông lâm nghiệp và thủy sản) là những người có việc làm và thuộc một trong các trường hợp sau: lao động gia đình không được hưởng lương, hưởng công; người chủ của cơ sở, lao động tự làm trong khu vực phi chính thức; người làm công hưởng lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc; xã viên hợp tác xã không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động trong khu vực hộ nông nghiệp.
16. Ban Thời sự (2024). Thị trường lao động năm 2024: Thời cơ và thách thức. https://vtv.vn, truy cập ngày 9/10/2024.
17. Sẵn sàng với chuyển đổi số của người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) – thực trạng và giải pháp. https://tapchicongthuong.vn,truy cập ngày 10/8/2024.
18. Áp dụng công nghệ mới đẩy nhanh phát triển bền vững. https://nhandan.vn, truy cập ngày 10/8/2024.
19. Thúc đẩy việc làm bền vững cho người dân, bảo đảm quyền con người. https://nhandan.vn, truy cập ngày 03/7/2024.
20. Nhiều thách thức trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững. https://dangcongsan.vn, truy cập ngày 10/8/2024.