TS. Thượng tá Hoàng Văn Đông
Học viện Cảnh sát Nhân dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Để xác định rõ hơn nhiệm vụ quan trọng này, cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, bảo đảm tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, nhất là tổ chức mô hình các Bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận về tầm quan trọng của việc tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh.
Từ khóa: Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; pháp quyền; xây dựng nền hành chính; hiệu lực, hiệu quả; phục vụ Nhân dân.
1. Đặt vấn đề
Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Việc thành lập, bãi bỏ các Bộ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định và Chính phủ quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ. Thực tiễn trong tổ chức quản lý nhà nước của nhiều quốc gia có nền hành chính tiên tiến, hiện đại và thực tiễn thực hiện mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ta cho thấy, càng nhiều Bộ thì càng khó quản lý. Có nhiều vấn đề giao thoa quyền lực, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, một việc giao cho nhiều Bộ, nhiều đầu mối khiến cho công tác chỉ đạo điều hành nhiều tầng nấc, trách nhiệm “lòng vòng” và đến khi xảy ra sai phạm thì khó quy trách nhiệm.
Trước đây, các vấn đề được quyết định từ trung ương với nhiều nhiệm vụ tương ứng mỗi ngành kinh tế có một Bộ quản lý tạo thành cơ cấu tổ chức với số lượng Bộ lớn, dẫn đến có sự giao thoa, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ lên nhau. Do đó, để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự thay đổi mạnh mẽ, nhất là thay đổi trong tư duy quản lý. Từ tổ chức Bộ đơn ngành, đã chuyển thành tổ chức Bộ đa ngành, đa lĩnh vực với việc sắp xếp tinh gọn các Bộ, gắn với việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
2. Tầm quan trọng của tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
Nhiệm kỳ Chính phủ khóa X (1997 – 2002)1 có 25 Bộ, cơ quan ngang Bộ. Giai đoạn này, Chính phủ đã thực hiện đổi mới cơ cấu tổ chức các Bộ và đổi mới phương thức hoạt động. Theo đó, về cơ cấu giảm số lượng đầu mối các Bộ, và hoạt động theo phương thức quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô, thông qua các chính sách, quy định pháp luật để xây dựng các ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn, tập trung cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm nhiều giấy phép, thủ tục con để thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và sản xuất kinh doanh. Nhiệm kỳ Chính phủ khóa XI (2022 – 2007)2có 26 Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Nhiệm kỳ Chính phủ khóa XII (2007 – 2011)3 có 30 cơ quan, gồm: 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ, 8 cơ quan thuộc Chính phủ. So với Chính phủ khóa XI giảm được 4 Bộ.
Nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIII (2011 – 2016)4; khóa XIV (2016 – 2021), tổ chức bộ máy các Bộ, cơ quan ngang Bộ cơ bản giữ nguyên. Do đó, tổ chức bộ máy Chính phủ khóa XIII, XIV giữ ổn định như Chính phủ khóa XII gồm: 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
Nhiệm kỳ Chính phủ khóa XV (2021-2026)5, trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động của Chính phủ khóa XIV, đầu nhiệm kỳ giữ ổn định gồm: 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ. Đến thời điểm tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18- NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, tiếp tục có những đánh giá, thực hiện định hướng tiếp tục sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ, sáp nhập, hợp nhất một số Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Theo đó, theo báo cáo của Ban Cán sự đảng Chính phủ, sau khi sắp xếp, có 14 Bộ, cơ quan ngang Bộ; 3 cơ quan ngang Bộ và 5 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 5 Bộ, cơ quan ngang Bộ; giảm 3 cơ quan thuộc Chính phủ)6. Về tổ chức bộ máy bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tiếp tục giảm về số lượng đầu mối.
Theo đó, giai đoạn 2017 – 2021 đã giảm được 11 Vụ và tương đương thuộc Bộ, giảm 7 Vụ thuộc tổng cục, giảm 492 chi cục thuộc tổng cục, giảm các phòng thuộc vụ, cục, tổng cục. Giai đoạn 2021 – 2023, tiếp tục giảm 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục, giảm 10 cục thuộc tổng cục và thuộc Bộ, giảm 144 vụ/ban thuộc tổng cục và thuộc Bộ, giảm 108 phòng7. Các Bộ tiếp tục được tổ chức theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tiếp tục giải quyết những vấn đề giáp ranh, giao thoa chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ để thu gọn đầu mối, rõ chức năng, nhiệm vụ, rõ trách nhiệm với nguyên tắc: “một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện”8 và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặt ra các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó nhấn mạnh việc: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các Bộ, cơ quan chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực; giảm hợp lý số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Tăng cường vai trò, nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng với tư cách thành viên Chính phủ trong quản lý vĩ mô và xây dựng chính sách”.
Việc tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các Bộ, gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phù hợp với sự chỉ đạo của Đảng, pháp luật chuyên ngành và yêu cầu thực tiễn, bảo đảm thống nhất trong quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các Bộ. Theo đó, các công việc không nhất thiết nhà nước làm, được giao cho các tổ chức xã hội, tổ chức doanh nghiệp, người dân đảm nhiệm, vừa tạo nên sự tinh gọn trong tổ chức bộ máy, vừa tạo việc làm, động lực để phát triển kinh tế – xã hội. Các Bộ tập trung tham mưu ban hành chính sách, tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, ngành, lĩnh vực được giao quản lý; đồng thời có hướng dẫn cụ thể, thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và xử lý vi phạm theo thẩm quyền nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật của cá nhân, tổ chức, gia tăng tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm. Việc phân định rõ được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các Bộ, rõ trách nhiệm người đứng đầu, giúp Chính phủ lượng hóa được khối lượng công việc, đánh giá rõ được hiệu quả quản lý nhà nước của từng Bộ quản lý đa ngành, đồng thời thông qua kết quả thực hiện để có thể điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ bảo đảm tính hài hòa, hợp lý, tương quan giữa các Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
3. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
Việc tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã một bước điều chỉnh theo hướng tinh gọn, khắc phục được sự cồng kềnh trong tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, với phương hướng một Bộ có thể quản lý nhiều lĩnh vực, bảo đảm sự linh hoạt, chủ động trong chỉ đạo, điều hành và giảm thiểu được chi phí hành chính cho tổ chức, bộ máy, con người. Tuy nhiên, tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực như hiện nay vẫn chưa thực sự tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành cũng cần có sự thay đổi để thật sự phù hợp với xu hướng quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Mô hình tổ chức Bộ đa ngành, đa lĩnh vực đã thể hiện được sự đúng đắn, hiệu quả trong cách thức tổ chức, nhưng trong thực tiễn cho thấy, việc xác định lĩnh vực quản lý đa ngành của các Bộ hiện nay vẫn chưa thực sự hợp lý, chưa có tiêu chí xác định như thế nào là “đa ngành” và Luật Tổ chức Chính phủ cũng chưa có quy định mang tính nguyên tắc pháp lý về “tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực”.
Vẫn còn có tình trạng lẫn lộn chức năng hoạch định chính sách, pháp luật và chức năng thực thi pháp luật trong tổ chức bộ máy của các Bộ, dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, hệ quả là cơ quan quản lý nhà nước “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng lớn đến việc vận hành tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Tuy nhiên, trong nội bộ, việc chuyển đổi số, đổi mới để thích nghi diễn ra còn chậm, nhân lực thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số của các Bộ còn thiếu, khó tuyển dụng do cạnh tranh lớn về chế độ đãi ngộ của khu vực tư.
Chủ trương đưa người không làm được việc, hiệu quả công việc thấp, có thái độ chây ỳ, trốn tránh, đùn đẩy trách nhiệm ra khỏi bộ máy của Nhà nước là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế chưa thực sự hiệu quả, vẫn còn tình trạng nể nang, “dĩ hòa vi quý” trong đánh giá cuối năm về chất lượng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức, viên chức. Cụ thể, theo thống kê báo cáo của Chính phủ, năm 2023, trong tổng số 254.757 công chức, có 43.308 người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (tỷ lệ 17%); có 175.639 người hoàn thành tốt nhiệm vụ (tỷ lệ 68,94%); có 19.077 người hoàn thành nhiệm vụ (tỷ lệ 7,49%) và 16.733 người không hoàn thành nhiệm vụ (tỷ lệ 6,57%)9. Tỷ lệ công chức được đánh giá phần lớn ở mức “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, còn lại mức không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ thấp, do đó, tính khả thi chưa cao trong trường hợp căn cứ kết quả đánh giá công chức hằng năm để thực hiện đưa ra khỏi nền công vụ đối tượng công chức có năng lực yếu kém.
Bên cạnh đó, các “thang đo” đánh giá công chức, viên chức được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật hiện nay chưa thực sự hữu hiệu để người đứng đầu làm căn cứ đánh giá. Các tiêu chí chung chung về: tuân thủ giờ giấc lao động, về tư tưởng, đạo đức, lối sống… khó để định lượng và các tiêu chí có thể định lượng được, như: tần suất, thời gian, tiến độ đánh giá 1 công việc được giao; chất lượng sản phẩm đầu ra của công chức tham mưu; chất lượng, thái độ phục vụ của công chức khi tiếp công dân… lại chưa có thang đo định lượng thỏa đáng. Xét theo vị trí, việc làm để đánh giá chưa có khung năng lực cụ thể để soi chiếu, chấm điểm.
4. Giải pháp hoàn thiện tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn hiện nay
Để tiếp tục hoàn thiện tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính Nhà nước phục vụ Nhân dân, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh cần huy động sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp, các ngành, nhất là sự đổi mới trong tư duy, cách làm, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, nhiều giải pháp tổng thể và cần thời gian, lộ trình phù hợp để thực hiện. Một số giải pháp được đề xuất, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng Bộ, bảo đảm phân công nhiệm vụ rõ ràng, tránh bỏ sót nhiệm vụ, giao thoa, chồng chéo, trùng dẫm chức năng, nhiệm vụ của các Bộ.
Với việc phân định rõ nhiệm vụ của từng Bộ đi liền với trách nhiệm sẽ giải quyết triệt để tình huống bỏ sót nhiệm vụ quản lý nhà nước vĩ mô, giảm thiểu việc đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khi có hậu quả pháp lý xảy ra trong các tình huống pháp lý thuộc phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực của các Bộ; bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước. Khi chức năng, nhiệm vụ rõ ràng của từng Bộ được phân định, bảo đảm các “kẽ hở”, bất cập về “lợi ích nhóm, lợi ích bộ, ngành” được kiểm soát chặt chẽ, tính minh bạch, khách quan trong tham mưu chính sách, đề xuất chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được củng cố, phát huy. Trong trường hợp khi thực hiện nhiệm vụ trên thực tiễn, chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ có phát hiện còn giao thoa, chưa rõ trách nhiệm, Chính phủ tiếp tục điều chỉnh linh hoạt, bảo đảm tính xuyên suốt, thống nhất, hiệu quả của nền hành chính.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, sắp xếp cơ cấu tổ chức bên trong các Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Các Bộ được tổ chức theo hướng tinh gọn, phù hợp chức năng, nhiệm vụ được giao, tuy nhiên bên trong cần được sắp xếp, giảm đầu mối cơ cấu theo Vụ, Cục, Ban, các đơn vị chức năng dùng chung, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, bảo đảm “một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính”. Theo đó, đối với các Vụ, Cục có chức năng tương đồng cần tổ chức lại; tiến hành ghép chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm tinh gọn; đồng thời, bố trí công chức phù hợp vị trí việc làm, năng lực, sở trường để thực hiện tốt công việc, không bị gián đoạn khi tiến hành sắp xếp. Cần tách bạch chức năng tham mưu chính sách với chức năng thực thi chính sách để bảo đảm được vai trò quản lý ngành, lĩnh vực của Bộ.
Đây là vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến quyền, lợi ích của nhiều bên, nhiều cá nhân, do đó, khi thực hiện cần cẩn trọng, khách quan, minh bạch, tuân thủ chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về sắp xếp tổ chức bộ máy, tránh trường hợp “ghép cơ học” các tổ chức với nhau, giảm đầu mối của Bộ, nhưng thực chất bên trong lại “phình to” các phòng, ban. Việc thành lập mới các tổ chức “con” bên trong các đơn vị được sáp nhập với mục tiêu giải quyết chế độ, chính sách cho công chức lãnh đạo là chính, chưa giải quyết được vấn đề cấp thiết đối với việc quản lý ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý, làm gia tăng thêm cấp trung gian, cấp phòng, ban không cần thiết. Vấn đề này dẫn đến hậu quả lãng phí nguồn lực, ngân sách nhà nước, gia tăng chi phí hành chính cho nguồn tài chính quốc gia khi tổ chức thực hiện.
Thứ ba, tiếp tục tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bố trí nhân sự hợp lý, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu, bối cảnh, tình hình mới.
Để đánh giá thực chất công việc của công chức, viên chức, cần xác định rõ vị trí, việc làm, có các thang đo định lượng công việc, được đánh giá thường xuyên và cần bảo đảm sự nghiêm minh, khách quan, minh bạch, công tâm của người đứng đầu khi đánh giá công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý. Tùy theo tính chất, mức độ phức tạp, quan trọng và đặc điểm công việc, trách nhiệm của từng vị trí công việc để đề xuất các tiêu chí đánh giá. Mặt khác, để nâng cao chất lượng công chức, viên chức cần có các lớp, chương trình đào tạo, bồi dưỡng bài bản, phù hợp vị trí, việc làm và các lớp bồi dưỡng kỹ năng mềm, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng phản ứng chính sách đối với công chức, viên chức. Trước tác động lớn của cách mạng công nghiệp 4.0 và môi trường làm việc số trong bối cảnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, mỗi cán bộ, công chức cần tự đổi mới, tự học tập, nghiên cứu, tự nỗ lực để không bị tụt hậu, đồng thời tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng, đào tạo để tăng cường năng lực bản thân.
Mặt khác, cơ quan, đơn vị cần tạo môi trường làm việc hài hòa, cởi mở, thẳng thắn, tạo điều kiện để công chức, viên chức phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công việc. Có ghi nhận công lao, khen thưởng xứng đáng đối với công chức, viên chức nỗ lực, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời có kỷ luật nghiêm minh đối với công chức, viên chức không tuân thủ quy định, tạo cơ hội thăng tiến, cất nhắc đề bạt và bổ nhiệm công chức, viên chức thực sự “có đức có tài” để công chức, viên chức yên tâm công tác, bám trụ, phục vụ lâu dài trong nền công vụ.
Thứ tư, thực hiện phân cấp quản lý nhà nước hợp lý giữa các Bộ đa ngành, đa lĩnh vực với chính quyền địa phương, tạo điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương trong thực hiện nhiệm vụ tại địa phương.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định: “Cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình” (khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015). Việc cơ quan nhà nước ở trung ương, cụ thể là các Bộ có thể thực hiện phân cấp, căn cứ yêu cầu công việc, khả năng thực hiện, điều kiện và tình hình cụ thể của địa phương. Khi tiến hành phân cấp, chính quyền địa phương có được quyền chủ động, linh hoạt thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương với phương châm: “rõ việc, rõ địa chỉ, rõ thẩm quyền và rõ trách nhiệm”. Mặt khác, khi tiến hành phân cấp cho chính quyền địa phương, các Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực cũng sẽ giảm tải công việc trực tiếp, tập trung thực hiện quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô thuộc thể chế, chính sách.
Thứ năm, đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành phù hợp với điều kiện mới, bối cảnh mới và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; tăng cường trách nhiệm giải trình, báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.
Phương thức chỉ đạo điều hành của Bộ trưởng, với tư cách là người đứng đầu Bộ cần căn cứ vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý ngành, lĩnh vực được giao để điều chỉnh cho phù hợp. Trong bối cảnh cách mạng công nghệ số, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, các tư lệnh ngành cần thể hiện tính linh hoạt, nhanh nhạy, quyết đoán trong chỉ đạo, điều hành để kịp thời tham mưu chính sách, pháp luật, bảo đảm không bỏ trống, bỏ sót các vấn đề thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý. Song song chỉ đạo điều hành, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra chuyên ngành để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh sai phạm, trong nhiều trường hợp cần xử lý nghiêm minh theo thẩm quyền để nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ.
Giải trình, báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý là nhiệm vụ được Hiến pháp quy định, do đó, Bộ trưởng với tư cách là người đứng đầu Bộ, lãnh đạo công tác của Bộ và chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công, cần báo cáo với Quốc hội, thường xuyên báo cáo với Nhân dân về những vấn đề thuộc chức trách, nhiệm vụ của mình. Qua thực hiện trách nhiệm thông tin, báo cáo, những vấn đề thuộc phạm vi quản lý được thể hiện rõ nét, những khiếm khuyết, sai sót trong chỉ đạo, điều hành được kịp thời phát hiện, chỉnh sửa, đồng thời cần đề cao trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc tiếp xúc, tiếp công dân để trực tiếp giải quyết những vướng mắc của người dân trong phạm vi thẩm quyền được giao.
5. Kết luận
Tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực là xu hướng phát triển chung của nhiều quốc gia có nền hành chính tiên tiến, hiện đại, trong đó có Việt Nam. Khi thực hiện tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đòi hỏi sự quyết tâm lớn về chính trị đồng thời đội ngũ công chức, viên chức cũng cần có sự chuẩn bị tâm thế kỹ càng, phải có sự thay đổi về tư duy, năng lực, trình độ để đảm đương trách nhiệm, nhiệm vụ lớn và nặng nề. Sau 40 năm đất nước đổi mới đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để hiện thực hóa mục tiêu, chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước, tổ chức bộ máy hành chính đang tích cực cải cách, đổi mới, trong đó có tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để đạt mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Chú thích:
1, 2. Thành viên Chính phủ qua các thời kỳ. https://chinhphu.vn/thanh-vien-chinh-phu-qua-cac-thoi-ky-68352?governId=620.
3. Quốc hội (2007). Nghị quyết số 01/2007/QH12 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ và số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII do Quốc hội ban hành.
4. Quốc hội (2011). Nghị quyết số 03/2011/QH13 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ và số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII do Quốc hội ban hành.
5. Quốc hội (2021). Nghị quyết số 08/2021/QH15 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ và số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XV do Quốc hội ban hành.
6, 7. Chính phủ (2024). Báo cáo số 3793-BC/BCSĐCP ngày 31/12/2024 của Ban Cán sự đảng Chính phủ về Tổng kết Nghị quyết số 18- NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (số liệu không bao gồm Bộ Công an và Bộ Quốc phòng).
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
9. Chính phủ (2024). Báo cáo số 471/BC-CP ngày 20/9/2024 của Chính phủ về công tác quản lý cán bộ, công chức gửi các vị đại biểu Quốc hội, Kỳ 8, Quốc hội khóa XV.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị Quốc gia sự thật.
2. Quốc hội. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
3. Quốc hội. Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
4. Tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW: Tập trung sắp xếp lại cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn. https://dhtn.ttxvn.org.vn/tintuc/tong-ket-nghi-quyet-18-nq-tw-tap-trung-sap-xep-lai-co-cau-to-chuc-theo-huong-tinh-gon-17401.