ThS. Hồ Diệu Mai
Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, các cấp, các ngành và địa phương đã xác định du lịch là điểm sáng trong bức tranh kinh tế ở Việt Nam. Thực tế này đem lại những tín hiệu tích cực cho các địa phương, trong đó có huyện Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã có những giải pháp đột phá mới để phát triển Côn Đảo trở thành khu du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao, đẳng cấp khu vực và quốc tế; là khu vực bảo tồn di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và khu vực bảo tồn hệ sinh thái đa dạng rừng, biển. Bài viết chỉ ra những thách thức và đề xuất một số giải pháp trong quản lý, bảo vệ, bảo tồn ở Vườn quốc gia Côn Đảo trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Vườn quốc gia Côn Đảo; định hướng, giải pháp phát triển; bảo tồn thiên nhiên; du lịch – dịch vụ, hệ sinh thái; huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
1. Đặt vấn đề
Côn Đảo là huyện đảo thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có diện tích phần nổi tự nhiên khoảng 7.578 ha, bao gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ, với hệ thống tài nguyên thiên nhiên rừng, biển đa dạng và những di sản lịch sử quý giá1. Đây chính là lợi thế để Côn Đảo xác định là khu du lịch – dịch vụ chất lượng cao trong khu vực và quốc tế. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Côn Đảo: “trong 5 tháng đầu năm 2024, huyện Côn Đảo đã đón 396.350 lượt khách du lịch, trong đó có 14.760 lượt khách quốc tế, đạt 67,6% kế hoạch năm”2.
Với những lợi thế này, công tác bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái biển, sự đa dạng sinh học và các loài động vật, thực vật bản địa quý hiếm, các sinh vật cảnh tự nhiên độc đáo của Côn Đảo ngày càng được quan tâm hơn. Kể từ sau năm 1984, Chính phủ đã thành lập khu rừng cấm Côn Đảo; đến năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/3/1993 về thành lập Vườn quốc gia Côn Đảo. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lãnh đạo huyện Côn Đảo và các sở, ban, ngành, các nhà khoa học, các cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục và đào tạo, đặc biệt là sự phấn đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ, công nhân viên Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo, đến nay,Vườn quốc gia Côn Đảo đã phát triển, xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ của một đơn vị quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, biển, bảo tồn đa dạng sinh học, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của huyện Côn Đảo nói riêng và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói chung và đóng góp vào sự nghiệp bảo tồn thiên nhiên trong hệ thống các khu rừng đặc dụng cả nước.
2. Công tác bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái rừng, biển, đảo của Vườn quốc gia Côn Đảo
Theo Quyết định số 135/QĐ-TTg, Vườn quốc gia Côn Đảo có chức năng, nhiệm vụ trong công tácbảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái biển, sự đa dạng sinh học và các loài động vật, thực vật bản địa quý hiếm, các sinh vật cảnh tự nhiên độc đáo; bảo vệ nguyên vẹn, phát triển diện tích rừng để gia tăng độ che phủ rừng đầu nguồn các khe, suối, bảo vệ đất, góp phần duy trì sự sống trên đảo, cung cấp nguồn nước ngọt cho sinh hoạt; đồng thời, bảo vệ rừng góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh cho quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc; sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học và các dịch vụ môi trường rừng để phát triển du lịch sinh thái, góp phần xây dựng Côn Đảo trở thành một trung tâm du lịch – dịch vụ chất lượng cao, có tầm cỡ khu vực và quốc tế, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững về kinh tế – xã hội của tỉnh và của đất nước.
Về cơ cấu tổ chức của Hạt Kiểm lâm Vườn quốc gia Côn Đảo trực thuộc Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo có chức năng quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp; là lực lượng chuyên ngành về phòng cháy và chữa cháy rừng; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường trong hợp phần bảo tồn đa dạng sinh học biển thuộc Vườn quốc gia Côn Đảo quản lý. Hiện nay, thực hiện công tác tuần tra bảo vệ tài nguyên rừng, biển của Hạt Kiểm lâm Vườn quốc gia là hơn 60 biên chế công chức, viên chức, được bố trí 12 trạm, tổ ngày đêm bám trụ ở địa bàn hẻo lánh, đi lại khó khăn cách trở, đời sống tuy còn thiếu thốn, song mỗi cán bộ, nhân viên của Vườn quốc gia Côn Đảo luôn kiên cường bám trụ xuyên suốt từ đảo Côn Sơn đến các đảo nhỏ để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng, bảo vệ đa dạng sinh học biển, góp phần cùng các chiến sĩ Biên phòng, Công an, Bộ đội trên huyện Côn Đảo… canh gác bảo vệ vùng biển, vùng trời, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc. Trong suốt hơn 30 năm qua,Côn Đảo không có vụ phá rừng, cháy rừng xảy ra, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững.
Hiện nay, Vườn quốc gia Côn Đảo có diện tích là 19.990,7 ha, bao gồm: 5.990,7 ha hợp phần bảo tồn rừng, 14.000 ha hợp phần bảo tồn biển và 20.500 ha vùng đệm biển; đồng thời, là một trong 6 vườn quốc gia của Việt Nam vừa thực hiện bảo tồn rừng, vừa thực hiện bảo tồn biển. Ngoài các tài nguyên thực vật rừng bậc cao, có mạch (như: dầu Côn Sơn, bui Côn Sơn, đọt dành Côn Sơn,…), hệ động vật rừng có 160 loài và 3 loài động vật đặc hữu (sóc đen Côn Đảo, thạch sùng Côn Đảo, khỉ đuôi dài Côn Đảo); tài nguyên đa dạng sinh học biển rất phong phú, đa dạng, với 1.725 loài sinh vật biển, còn có các yếu tố về địa lý mà Ngân hàng Thế giới đã đưa Vườn quốc gia Côn Đảo vào danh sách các vùng ưu tiên cao nhất trong hệ thống các khu bảo tồn biển toàn cầu. Năm 2013, Ban Thư ký Công ước Ramsar công nhận Vườn quốc gia Côn Đảo là vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế thứ 2.203 của thế giới và Khu Ramsar thứ 6 của Việt Nam3.
Về một số chương trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu gắn với hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế, Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo phối hợp với các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức bảo tồn quốc tế, như: Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF); Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF); Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP); Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Trung tâm nhiệt đới Việt – Nga để thực hiện một số chương trình, dự án bảo tồn, nghiên cứu tiêu biểu và đã triển khai thành công. Có thể kể đến thành công trong công tác bảo tồn rùa biển.
Trong giai đoạn 1993 – 2022, nhờ tiến hành các biện pháp quản lý, bảo vệ và bảo tồn mà số lượng rùa biển về lại các bãi đẻ ở Vườn quốc gia Côn Đảo có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, việc đầu tư hệ thống hồ ấp, trại ấp, công tác theo dõi, cứu hộ, trang thiết bị phục vụ cho việc di dời và ấp trứng rùa, quản lý kiểm soát và thả rùa con về biển hằng năm nên số lượng đàn rùa con được thả về biển hằng năm đều gia tăng. Số lượng rùa biển về đẻ trứng tại các bãi biển Vườn quốc gia Côn Đảo ngày càng tăng và số lượng rùa con thả về biển ngày càng nhiều. Nhờ kết quả đạt được đó, năm 2019, đã gia nhập mạng lưới bảo tồn rùa biển khu vực Ấn Độ Dương – Đông Nam Á (IOSEA).
Về hoạt động du lịch – dịch vụ, trong đó nổi bật là hoạt động du lịch sinh thái trong Vườn quốc gia Côn Đảo ngày càng chất lượng cao, thể hiện qua sự tăng về số lượng du khách trong nước và nước ngoài đến Côn Đảo năm sau cao hơn năm trước. Báo cáo của Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo, trong 5 năm (2017 – 2021), đã có 135.000 lượt khách đến thăm quan Vườn quốc gia Côn Đảo, trong đó khoảng 1/6 là du khách nước ngoài, doanh thu đạt được là 5,277 tỷ đồng; lợi nhuận của hoạt động du lịch đã góp phần xây dựng cơ chế tài chính bền vững cho đơn vị4. Thông qua hoạt động du lịch sinh thái, Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo đã chia sẻ lợi ích cho cộng đồng dân cư, người dân đã có nghề nghiệp và thu nhập ổn định từ vận chuyển khách tham quan, hướng dẫn viên, kinh doanh du lịch lữ hành, kinh doanh nhà hàng, khách sạn. Các cơ sở vật chất phục vụ bảo vệ rừng, biển, đảo kết hợp du lịch sinh thái được đầu tư ngày càng đầy đủ, hoàn thiện, như xây dựng hơn 23 km đường tuần tra kết hợp du lịch; xây dựng vườn thực vật tại Ông Đụng; các Trạm kiểm lâm; hệ thống pin năng lượng mặt trời, bễ chứa nước mưa được nâng cấp để phục vụ công tác vừa kết hợp phục vụ du lịch; xây dựng các nhà hàng tại các điểm du lịch ở hòn để phục vụ du khách… Bên cạnh đó, thực hiện hiệu quả dự án cho dân nghèo, ngư dân đánh bắt thủy sản được vay vốn lãi suất thấp từ Quỹ Bảo tồn và Phát triển tài nguyên thiên nhiên để hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng dân cư trên đảo, góp phần giảm áp lực xâm hại tài nguyên thiên nhiên và đã giải quyết cho 57 hộ gia đình vay với tổng số vốn giải ngân 2,1 tỷ đồng5.
Trong hợp tác công tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thống kê trong giai đoạn 2021 – 2023 đạt kết quả cụ thể là:
(1) Phục hồi rừng xã hội hóa trồng rừng: vốn Nhà nước là 8.746 tỷ đồng (17%); vốn xã hội hóa: 41.485 tỷ đồng (83%).
(2) Bảo tồn đa dạng sinh học (tổ chức quốc tế, NGOs trong và ngoài nước về lĩnh vực bảo tồn, tạo nguồn đầu tư lớn cho công tác bảo tồn).
(3) Phát triển dịch vụ môi trường rừng: cơ bản là các doanh nghiệp lĩnh vực thuỷ điện, nước sạch, du lịch (3.650 tỷ đồng/năm).
(4) Chế biến, thương mại lâm sản: có trên 6.000 doanh nghiệp, xuất khẩu trung bình gần 16 tỷ USD (giai đoạn 2021 – 2023)6.
Cùng với phát triển du lịch sinh thái, công tác giáo dục môi trường và nâng cao nhận thức cộng đồng cũng được quan tâm thường xuyên. Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo đã tổ chức chương trình giáo dục môi trường cho học sinh các cấp ở địa phương, các đơn vị bộ đội, Nhân dân ở các khu dân cư, du khách, ngư dân các tỉnh… với nội dung, hình thức tuyên truyền vận động phong phú đa dạng. Công tác giáo dục môi trường đã làm cho cộng đồng nhận thức đầy đủ, tôn trọng thiên nhiên và có hành động thiết thực góp phần bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, hệ sinh thái quanh đảo đang có nguy cơ bị ảnhhưởng do tác động của các hoạt động kinh tế, thay đổi môi trường và biến đổi khí hậu tại Côn Đảo. Thực trạng về môi trường thay đổi do quy hoạch xây dựng chưa phù hợp với tiêu chí xây dựng, việc san gạt làm biến đổi địa hình cũng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái tự nhiên, nhất là Vườn quốc gia Côn Đảo; về xử lý rác thải còn chưa được đầu tư phù hợp với điều kiện trên đảo; vấn đề hạn chế về giao thông, điện, về thiếu nước sinh hoạt cho người dân và khách du lịch, nhất là trong mùa cao điểm du lịch thì vấn đề này càng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển ngành du lịch – dịch vụ. Hơn nữa, vẫn còn một số khách du lịch thiếu ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường tự nhiên thiên nhiên trên đảo.
3. Một số định hướng và giải pháp phát triển gắn với bảo tồn thiên nhiên Vườn quốc gia Côn Đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
3.1. Về định hướng
Trong việc xây dựng Đề án “Phát triển Côn Đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu luôn xác định rõ việc bảo đảm các mục tiêu đề ra, nhất là đối với việc khai thác, hợp tác công tư hiệu quả tiềm năng du lịch nhưng phải làm tốt công tác bảo tồn di tích lịch sử cách mạng, bảo vệ thiên nhiên làm động lực để Côn Đảo phát triển bền vững.
Theo báo cáo của Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia – VIUP, mục tiêu điều chỉnh quy hoạch nhằm xây dựng Côn Đảo phù hợp với định hướng phát triển du lịch quốc gia, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, khai thác và bảo vệ sinh thái Vườn quốc gia Côn Đảo, hướng tới phát triển Côn Đảo trở thành khu du lịch sinh thái biển đảo và văn hóa – lịch sử – tâm linh chất lượng cao, tầm cỡ khu vực và quốc tế7.
Về định hướng phát triển không gian và thiết kế đô thị, đối với vùng sinh thái tự nhiên và Vườn quốc gia Côn Đảo phải tuân thủ quy định về bảo vệ phát triển rừng, phù hợp với tiêu chí xây dựng, không san gạt làm biến đổi địa hình, không phá hoại hệ sinh thái tự nhiên. Đối với khu vực đảo nhỏ sẽ kiểm soát chặt chẽ hoạt động giao thông, du lịch trên mặt biển; thiết kế các công trình dịch vụ du lịch tại vị trí được xác định cho thuê môi trường rừng theo hướng kiến trúc xanh, sử dụng vật liệu địa phương thân thiện môi trường, bảo đảm với tiêu chí và quy định. Nghị quyết số 19/NQ-HĐND ngày 29/02/2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (khóa VII) thông qua Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2045, như sau:
(1) Sử dụng đất đai toàn đảo với tổng diện tích đất tự nhiên toàn đảo hiện trạng khoảng 7.578,87 ha; tổng diện tích quy hoạch khoảng 7.718,48 ha (trong đó, diện tích đất Vườn quốc gia Côn Đảo khoảng 5.889,8 ha và diện tích quy hoạch ngoài Vườn quốc gia khoảng 1.828,68 ha); diện tích quy hoạch ngoài Vườn quốc gia khoảng 1.828,68 ha (bao gồm: diện tích đất tự nhiên ngoài Vườn quốc gia khoảng 1.689,07 ha và diện tích đất quy hoạch khai thác mặt biển khoảng 140 ha), trong đó:
– Đến năm 2030: đất xây dựng các khu chức năng khoảng 1.263,26 ha; đất nông nghiệp và chức năng khác khoảng 565,42 ha (trong đó đất rừng phòng hộ khoảng 311 ha).
– Đến năm 2045: đất xây dựng các khu chức năng khoảng 1.486,44 ha; đất nông nghiệp và chức năng khác khoảng 342,24 ha (trong đó đất rừng phòng hộ khoảng 237,76 ha).
(2) Đối với diện tích trong Vườn quốc gia Côn Đảo: phần bảo tồn biển (khoảng 14.000 ha; chiếm 70,4% diện tích Vườn quốc gia); phần bảo tồn trên các hòn đảo (khoảng 5.889,8 ha; chiếm 76,4% diện tích đất tự nhiên và 29,6% diện tích Vườn quốc gia).
Đối với vùng phát triển đô thị – du lịch, thực hiện bảo tồn khu trung tâm Côn Đảo theo Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo phát huy các giá trị Khu di tích Côn Đảo; cải tạo chỉnh trang kiến trúc và hạ tầng khu phố hiện hữu, không phát triển thêm công trình cao tầng (tối đa 7 tầng nổi, 2 tầng hầm); phát triển các kiến trúc dạng biệt thự du lịch thấp tầng (1 – 5 tầng) có mật độ xây dựng thấp ở khu đô thị – du lịch ven biển phía Tây Nam; xây dựng khu đô thị du lịch hiện đại, hạ tầng đồng bộ, có thể phát triển các khu nhà cao tầng làm điểm nhấn ở khu đô thị ven núi; phát triển cây xanh, cây ăn quả kết hợp với mở rộng mặt nước gắn với hồ Quang Trung, An Hải và Quang Trung ở khu cảnh quan sinh thái nông nghiệp và mặt nước.
3.2. Giải pháp thực hiện
Thứ nhất, để nâng cao chất lượng “Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2045”, đơn vị tư vấn cần phối hợp chặt chẽ với UBND huyện Côn Đảo và sở, ngành trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu rà soát, làm rõ hơn cơ sở khoa học của các tính toán, dự báo về dân số; chú trọng công tác xử lý rác thải và bổ sung giải pháp thu hồi rác trên đất liền, mặt biển để bảo đảm môi trường trong sạch của Côn Đảo; bổ sung phương hướng quy hoạch sử dụng không gian ngầm; quan tâm khai thác các tiềm năng du lịch của Hòn Cau; tránh khai thác nước ngầm quy mô lớn…
Cần có sự đánh giá của các chuyên gia thành viên Hội đồng nhận định hồ sơ “Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2045” đã có đầy đủ căn cứ pháp lý; thành phần hồ sơ, trình tự thủ tục thẩm định đúng quy định; định hướng quy hoạch được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố liên quan, như: về giao thông, điện, đất đai; phân tích khả năng dung nạp của Côn Đảo, từ đó có định hướng và giải pháp một cách phù hợp; đặc biệt, tăng cường công tác quốc phòng – an ninh, bảo vệ môi trường; chú trọng bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa trên đảo; chú trọng khai thác, phát huy giá trị không gian mặt biển.
Thứ hai, UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu cần có định hướng chiến lược cụ thể trong phát triển Côn Đảo. Đặc biệt, cần có phương án phân tích những ảnh hưởng về sức tải (sức tải môi trường tự nhiên; sức tải xã hội; sức tải cộng đồng; sức tải đất đai; sức tải nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác; sức tải môi trường; sức tải sinh thái; sức tải kinh tế và sức tải phức hợp) và đặc biệt là khả năng phục hồi.Theo đó, áp dụng các biện pháp để duy trì và nâng cao khả năng phục hồi cho điểm đến, xoay quanh các cấu phần cốt lõi của khả năng này, bao gồm đánh giá rủi ro, quản lý rủi ro và năng lực thích ứng8. Trong đó, xác định việc tích trữ nước ngọt là điều kiện sống còn, đồng thời không nên mở rộng khu vực dân cưvà cần tăng độ che phủ rừng nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Thứ ba, cần học hỏi kinh nghiệm từ các địa phương và các nước trên thế giới về việc đẩy mạnh hợp tác công – tư trong phát triển giá trị đa dạng của hệ sinh thái rừng để đem lại giá trị cung cấp, giá trị điều tiết, giá trị hỗ trợ và giá trị văn hóa của Vườn quốc gia Côn Đảo. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai hợp tác công tư cũng có những rào cản, như: (1) Cách tiếp cận về phát triển giá trị từ rừng về dơn giá trị và đơn ngành; (2) Cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực xã hội chưa đủ hấp dẫn; (3) Hạ tầng công nghệ hạn chế, chu kỳ sản xuất vốn đầu tư tốn, rủi ro cao; (4) Chất lượng nguồn nhân lực thấp, nhận thức người dân chưa cao.
Vì vậy, nếu giải quyết tốt từng vấn đề này sẽ bổ sung nguồn lực cho phát triển; tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, bảo đảm hài hòa lợi ích và chia sẻ rủi ro; tranh thủ sự hỗ trợ về công nghệ giải pháp, kinh nghiệm; nâng cao năng lực cho các bên; hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính môi trường đầu tư; đa dạng hóa nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Trong đó, cần ưu tiên các lĩnh vực sau: (1) Bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng; (2) Phát triển các cây dược liệu, dược liệu quý hiếm trong rừng, xây dựng thương hiệu sản phẩm; (3) Tổ chức liên kết theo chuỗi các sản phẩm lâm nghiệp; (4) Ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm; (5) Phát triển dịch dụ MTR, phát triển thúc đẩy hình thành thị trường cacbon rừng9.
Trong hoạt động du lịch – dịch vụ hệ sinh thái ở Vườn quốc gia Côn Đảo, giao chức năng, nhiệm vụ cho Ban Quản lý Vườn thực hiện và có sự phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan sớm triển khai “Hộ chiếu Vườn quốc gia” và khuyến khích các du khách tăng cường khám phá trải nghiệm rừng và nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát triển rừng quốc gia của đất nước.
4. Kết luận
Phát huy vai trò, nhiệm vụ của đơn vị quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, biển, bảo tồn đa dạng sinh học, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của huyện Côn Đảo nói riêng và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói chung và đóng góp vào sự nghiệp bảo tồn thiên nhiên trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của cả nước, tập thể cán bộ, công nhân viên Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo luôn xứng đáng và tiếp tục làm tốt công tác quản lý và bảo vệ rừng, bảo đảm thực hiện các mục tiêu giữ gìn vệ sinh môi trường, phát huy các giá trị văn hóa, sinh thái, chủ động ứng phó với những thay đổi môi trường, bao gồm biến đổi khí hậu và nước biển dâng; đáp ứng các yêu cầu, chủ trương phát triển bền vững, tăng trưởng xanh mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Chú thích:
1. Mùa du lịch sinh thái Côn Đảo – kỳ vọng thu hút thêm du khách. https://vneconomy.vn/mua-du-lich-sinh-thai-con-dao-ky-vong-thu-hut-them-du-khach.htm
2, 3. Những dấu ấn hình thành và phát triển của Vườn quốc gia Côn Đảo. https://condaopark.com.vn/vn/ky-niem-30-nam-ngay-thanh-lap-vuon-quoc-gia-con-dao.html, truy cập ngày 23/4/2023.
4, 5. Vườn quốc gia Côn Đảo – 25 năm hình thành và phát triển. https://baria-vungtau.gov.vn/sphere/baria/vungtau/page/print.cpx?uuid=5b9095fd5256891b87b84928, truy cập ngày 23/4/2023.
6, 9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2024). Định hướng hợp tác công tư trong phát triển giá trị đa dạng của hệ sinh thái rừng.
7, 8. Phát triển Côn Đảo theo hướng bền vững. https://nhandan.vn/phat-trien-con-dao-theo-huong-ben-vung-post780022.html, ngày 29/10/2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo (2021). Kế hoạch số 21/KH-VQG ngày 27/7/2021 về tổ chức hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại Vườn quốc gia Côn Đảo, giai đoạn 2021 – 2025.
2. Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo (2021). Quyết định số 227/QĐ-VQG ngày 15/10/2021 ban hành quy định Bảo vệ sinh cảnh, bãi đẻ của rùa biển gắn với hoạt động du lịch sinh thái Vườn quốc gia Côn Đảo.
3. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Đảng ủy Ban Quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo (2022). Nghị quyết số 19-NQ/ĐU ngày 06/01/2022 về phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí Vườn quốc gia Côn Đảo đến năm 2025.
5. Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (khóa VII) (2024). Nghị quyết số 19/NQ-HĐND ngày 29/02/2024 thông qua Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2045.
6. Thủ tướng Chính phủ (1993). Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/3/1993 về việc thành lập Vườn quốc gia Côn Đảo thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
7. UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2016). Quyết định số 2201/QĐ-UBND ngày 16/8/2016 phê duyệt Dự án du lịch sinh thái trong Vườn quốc gia Côn Đảo giai đoạn năm 2016 – 2020.