Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào công tác đổi mới phương pháp dạy học tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh

TS. Nguyễn Thị Thủy
TS. Nguyễn Thị Như Quỳnh 
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam bao gồm những luận điểm sáng tạo liên quan tới nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Tư tưởng về giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện không phải một cách tách rời độc lập mà gắn kết, biện chứng với các tư tưởng lớn về giải phóng dân tộc, phát triển con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội… Đây là một đặc điểm có ý nghĩa nền tảng của bài viết khi phân tích về tư tưởng giáo dục của Người. Điều này càng có giá trị hơn khi vận dụng tư tưởng này vào công tác đổi mới phương pháp dạy học tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên hiện nay.

Từ khóa: Giáo dục; đổi mới; phương pháp dạy học; Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên.

1. Đặt vấn đề

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục bao gồm nhiều nội dung, từ các quan điểm về giáo dục toàn diện, giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, giáo dục là nền tảng của phát triển kinh tế – xã hội… Và thông qua những bài viết ngắn gọn, thiết thực, sinh động cũng như quá trình hoạt động cách mạng thực tiễn của Người, bằng các phương pháp giáo dục đa dạng, phong phú và phù hợp với từng đối tượng, những nội dung về giáo dục đã góp phần hình thành nên nhiều thế hệ người Việt Nam toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”, có đức, có tài, có tri thức, sức khỏe, văn hóa, trình độ khoa học – kỹ thuật, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục càng có ý nghĩa quan trọng về cả nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục, đặc biệt là hiện nay, trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh đang tiến hành thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.  

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy học ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (từ 8/1910 – 02/1911) được xem như là mốc đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Tại đây, thầy giáo Nguyễn Tất Thành không những dạy học trò kiến thức văn hóa mà còn gieo vào tâm trí người học về nguồn cội, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tình yêu nước, yêu đồng bào và nỗi niềm trăn trở của người dân mất nước qua mỗi bài giảng. Thầy dạy học trò đạo làm người, dạy cách sống, cách cư xử với mọi người. Thầy luôn căn dặn những học trò thân yêu: “Chữ là mắt. Người không có chữ coi như bị mù vậy”1. Thầy tâm sự với các em: “Thầy nghĩ chúng ta học cái chữ để biết được điều hay lẽ phải trên đời và theo Thầy, trước hết là học để biết và làm được những việc ích nước lợi dân”2.

Thứ nhất, vai trò của giáo dục.

Khi nói về vai trò của giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh có cách đánh giá riêng với các lập luận gắn với sự phân tích liên quan tới hoạt động diễn ra trong cuộc sống. Nhờ vậy, vai trò của giáo dục luôn có ý nghĩa thực tiễn cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới – con người XHCN. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục mới sẽ “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án rất sâu sắc nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp với chính sách ngu dân dễ trị, Người nhấn mạnh: “Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”4.

Nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng phục vụ Tổ quốc và Nhân dân. Vai trò này được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt là  “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”5. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc dạy và học phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, nói chuyện tại Đại hội Giáo dục phổ thông toàn quốc (23/3/1956), Người động viên các thầy, cô giáo: “Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân, của Nhà nước.Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”6.

Thứ hai, nội dung của giáo dục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục phải có tính toàn diện. Trong thư gửi các em học sinh nhân ngày mở trường (24/10/1955), Người nhắn nhủ việc giáo dục gồm có: “Thể dục: Để làm thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung. Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới. Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp. Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công”7.

Cả bốn nội dung trên của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát lại trong hai chữ “tài” và “đức”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong giáo dục, kiến thức là rất cần thiết, nhưng Người cũng chỉ ra rằng, đạo đức đóng vai trò quan trọng không kém. Người khẳng định: “Giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản… thì còn làm nổi việc gì?”8. Nói chuyện với cán bộ, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (21/10/1964), Người chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng đến cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”9.    

Ở khía cạnh khác, nội dung của giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phù hợp với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, mỗi bậc học. Trong bức thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31/10/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”10.

Thứ ba, phương pháp giáo dục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp giáo dục. Người nhấn mạnh, muốn học tập có kết quả tốt thì phải có phương pháp giáo dục đúng đắn. Mục đích là làm cho người học có thái độ học tập, rèn luyện tích cực và tự giác, có như vậy việc tiếp thu nội dung giáo dục mới nhanh chóng, hiệu quả, đạt mục tiêu. Ngay từ những ngày còn dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý áp dụng phương pháp giáo dục “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”11. Theo Người, học phải gắn với hành, học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Người cho rằng: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”12.

Người phân tích: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”13.

Thứ tư, giải pháp phát triển giáo dục.

Trong các giải pháp phát triển giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập, vấn đề kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có vị trí khá nổi bật. Người nói: “Giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”14; “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt”15. Người yêu cầu nhà trường phải liên hệ chặt chẽ với gia đình và xã hội.

Bên cạnh đó, để phát triển giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cần có sự quan tâm và phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều người. Người nhắc nhở: “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy Đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”16. Người luôn luôn kêu gọi đồng bào đóng góp công sức của mình vào việc xây dựng giáo dục: “Từ trước đến nay, đồng bào ta đã hết lòng giúp đỡ công việc giáo dục. Tôi mong rằng từ nay về sau, đồng bào sẽ cố gắng giúp đỡ nhiều hơn nữa cho trường học”17.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển giáo dục tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên hiện nay

Một là, thực trạng đổi mới phương pháp giáo dục của Nhà trường.

Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh được thành lập theo Quyết định số 136/2004/QĐ-TTg ngày 02/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại các đơn vị đào tạo thuộc lĩnh vực: Kinh tế, Quản lý và Quản trị kinh doanh trong Đại học Thái Nguyên. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Trường đã đặt ra mục tiêu “Trở thành trường đại học hàng đầu trong nước và khu vực châu Á về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyến giao công nghệ và phục vụ cộng đồng trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh và quản lý18Từ đó, Nhà trường xác định rất rõ về sứ mạng của Nhà trường, đó là: “Đào tạo, nghiên cứu kết hợp với đổi mới sáng tạo để hình thành nên nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng phát triến nghề nghiệp và lòng nhân ái, thực hiện chuyến giao sản phẩm khoa học công nghệ trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh và quản lý, góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng và xã hội”19.

Trên con đường hiện thực hóa tầm nhìn cũng như sứ mệnh, Ban Giám hiệu cùng hệ thống các giảng viên của Nhà trường luôn chủ động, sáng tạo – thực tiễn -hội nhập trong mọi công tác đào tạo – giáo dục.Với giá trị cốt lõi: Tận tâm – Chất lượng – Hiệu quả, các giảng viên của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh đều cố gắng hết sức, làm hết trách nhiệm và  khả năng để vận dụng một số nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong công tác đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên còn tồn tại một số hạn chế:

(1) Sinh viên chưa có ý thức tự học, tìm tòi, suy nghĩ trong học tập, còn thiếu ý thức làm bài tập khi được giao cũng như không chuẩn bị, không tìm hiểu suy nghĩ trước về nội dung bài chuẩn bị được giảng dạy trên lớp, do đó, không có những khúc mắc và nhu cầu giải đáp về nội dung cần chuẩn bị trước; đặc biệt là còn có nhiều sinh viên ở trên lớp học thiếu tập trung và làm việc riêng. 

Nguyên nhân của thực trạng trên do tác động bởi nhiều yếu tố. Về phía giảng viên, do phương pháp của giảng viên chưa thực sự lôi cuốn, kích thích tư duy ở trên lớp; giảng viên không giao nhiệm vụ về nhà, hoặc có giao nhiệm vụ về nhà nhưng sức ỳ của sinh viên quá lớn, sau đó không tiếp tục giao nhiệm vụ. Về phía sinh viên do nhiều sinh viên chưa có thói quan chuẩn bị suy nghĩ về nội dung bài học mới; trên lớp vẫn bị lôi cuốn bời facebook, zalo, mạng xã hội do được mang điện thoại vào lớp học; mục tiêu học tập chưa mang tính tự thân, không phải là có được tri thức.

(2) Việc dạy – học liên hệ với thực tế còn hạn chế: những bất cập đó như: việc đưa ra ví dụ liên hệ vẫn còn trừu tượng. Nhiều giảng viên dùng những video liên hệ cho lý thuyết nhưng nội dung không cụ thể hơn lý thuyết, không có sức giải thích cho lý thuyết. Nguyên nhân của hạn chế này là kiến thức dùng để liên hệ thực tế của ít nhiều giảng viên chưa phong phú đa dạng; mức độ hiểu biết lý thuyết khoa học chưa đủ độ sâu để có liên hệ gần gũi, chính xác; không có nhiều thời gian để dùng nhiều liên hệ.

Hai là, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh.

(1) Tăng cường sự hiểu biết của giảng viên và sinh viên về tư tưởng giáo dục và phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh: thông qua việc giảng viên và sinh viên tự tìm hiểu tư tưởng này của Người, qua việc tổ chức những diễn đàn, những hội thảo khoa học cấp khoa, cấp trường:

– Đối với giảng viên, cần nâng cao trình độ tri thức môn mình đàm nhiệm thông qua việc tự học tập tự trau dồi và thông qua việc đi học tập lên trình độ cao hơn, giảm bớt thời gian những nhiệm vụ không căn bản để giảng viên có nhiều thời gian dành cho nhiệm vụ căn bản là nghiên cứu và giảng dạy. 

– Đối với sinh viên, cần nâng cao ý thức tự giác học tập. 

– Tăng cường kết hợp giữa giáo dục nhà trường và gia đình để phản ánh về ý thức học tập của sinh viên, kết hợp với gia đình uốn nắn, động viên sinh viên. 

(2) Thực hiện tốt phương pháp giáo dục: Học đi đôi với hành, kết hợp nghiên cứu khoa học và ứng dụng thực tiễn. Sinh viên được giảng viên hướng dẫn kỹ năng học lý luận, hiểu sâu và nắm chắc kiến thức lý luận cơ bản, dần dần tự bản thân giải quyết những vấn đề từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Không nên tuyệt đối hóa lý luận mà giảng viên khéo léo xen kẽ những dẫn chứng cụ thể, kết hợp hài hòa những phương pháp khác để sinh viên nắm vững lý luận và thực tiễn. Giáo dục phải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đây là một nguyên tắc xây dựng nền giáo dục, vừa là đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả giáo dục phục vụ sản xuất và đời sống. Vì vậy, cần chú ý giáo dục khả năng lao động, gắn kiến thức học với ngành nghề sản xuất, từ đó tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên sau này. 

Giảng viên luôn đồng hành và hỗ trợ các bạn sinh viên trong các cuộc thi tài năng cũng như chuyên ngành, như: Câu lạc bộ Luật gia và Nhà quản lý đi học tập thực tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên; Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ sinh viên phối hợp cùng Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank) tổ chức chương trình “Thực tập viên tiềm năng năm 2023” đưa sinh viên tham dự chương trình đào tạo kéo dài 3 tháng với các khóa học nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng cần thiết để ứng dụng vào công việc thực tế, đồng thời được làm việc, sau khi kết thúc khóa đào tạo, sinh viên sẽ có cơ hội được nhận vào làm việc chính thức tại Sacombank với chính sách đãi ngộ hấp dẫn, lộ trình và cơ hội thăng tiến rõ ràng, minh bạch… Với hoạt động đó giúp cho sinh viên đạt được thành tích tốt trong học tập mà còn phát triển nghề nghiệp sau tốt nghiệp.

(3) Lấy người học làm trung tâm: phát triển giáo dục đi đôi với tạo điều kiện tự học tập, tự nghiên cứu và cơ chế học tập suốt đời là yếu tố quan trọng để tạo ra một xã hội học tập. Việc học không chỉ đối với người được giáo dục mà cả những người làm công tác giáo dục cũng phải học liên tục, nâng cao lý luận và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Để phát huy phương pháp lấy người học làm trung tâm: đối với một số môn, một số bài chỉ cần giới thiệu những ý chính, đi sâu vào một vài vấn đề, nêu lên quy định sách và tài liệu bắt buộc phải đọc, để người học tự thu hoạch, tự nêu cách xử lý tình huống,… Trong thời gian được giáo dục chương trình đào tạo ở trường, sinh viên phải được trang bị về phương pháp tiếp nhận lý thuyết, vận dụng và xử lý thực tiễn để làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.

(4) Kết hợp tổ chức các hình thức phụ khóa, ngoại khóa: đây là phương pháp học tập bổ sung kiến thức, chứng minh và làm phong phú, sâu sắc hơn cho bài giảng trên lớp mà trong khi giảng bài không thể thực hiện được. Làm tốt khâu này sẽ bổ sung được lượng kiến thức mới phong phú, làm tăng thêm sức hấp dẫn của môn học, tạo sự chuyển biến vững chắc từ kiến thức thành năng lực và phẩm chất nhân cách. Một số hình thức phụ khóa, ngoại khóa cụ thể cần thực hiện, bao gồm: nghe báo cáo thực tế chuyên đề; tổ chức tham quan, khảo sát theo chuyên đề; tổ chức câu lạc bộ theo chuyên đề; tổ chức chiếu phim tư liệu theo chuyên đề.

(5) Xây dựng đội ngũ giảng viên “vừa hồng”, “vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giảng viên đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn, lành mạnh, trong sáng, có tấm lòng nhiệt thành với nghề nghiệp, có thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Bất cứ giảng viên nào cũng không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức của bộ môn, mở rộng sự hiểu biết kiến thức chung có liên quan đến nội dung bộ môn; có phương pháp giảng dạy tốt, không ngừng hoàn thiện và cải tiến nghiệp vụ sư phạm. Để truyền đạt hữu hiệu đến sinh viên, ngoài những kỹ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức về chuyên ngành để có thể khai triển những lí thuyết và ý tưởng từ nội dung của giáo trình. Những kiến thức này có thể tiếp thu qua nghiên cứu khoa học.

(6) Cần có sự phối hợp tốt, nhất quán giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình, xã hội và các ban, ngành: gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên cũng là môi trường gần gủi nhất đối với các em. Vì vậy, gia đình cần quan tâm sâu sắc những biểu hiện và hành vi của các em, luôn chủ động giúp các em nhận thức về vai trò của tri thức, đạo đức, về kỹ năng sống trong các mối quan hệ xã hội. Gia đình hợp tác với nhà trường trong quá trình giáo dục sinh viên. Khi các em ở trường cần được nhà trường quản lý và quan tâm sát sao đến ý thức, trách nhiệm, học lực, đạo đức, lý tưởng của các em và phối hợp thống nhất với gia đình trong quá trình giáo dục. Nhà trường cần nâng cao vai trò, vị trí, chất lượng chương trình, chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội và mong đợi của sinh viên. Thông qua các kênh liên lạc và đội ngũ cố vấn học tập, nhà trường liên hệ với gia đình trong quá trình quản lý giáo dục sinh viên.

4. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vẫn rất có ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của nước ta hiện nay. Các phương pháp này rất gần với những gì đang được nói tới hiện nay, như mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội,… góp phần mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam trong lịch sử, sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chú thích:
1, 2. Sơn Tùng (2009). Búp sen xanh. H. NXB Văn học, tr. 236, 251.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 34.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 40.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 208.
6, 7, 10, 14, 15.  Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 291, 175, 176, 591, 591.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 292.
9, 11, 16. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 400, 402, 747.
12, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 275.
17. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 648.
18, 19. Tầm nhìn, sứ mạng, triết lý giáo dục. https://tueba.edu.vn/bai-viet/Tam-Nhin–Su-Mang–Triet-Ly-Giao-Duc-59.html, ngày 08/10/2024.