Trung tá Nguyễn Văn Hoán
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong giai đoạn từ năm 2015 – 2024, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong việc kiến tạo môi trường đầu tư đột phá, mang lại sự bứt phá cho kinh tế – xã hội địa phương. Sự thành công này là kết quả của quá trình lãnh đạo sáng tạo và quyết liệt. Các chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư được triển khai hiệu quả, cùng với việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đã tạo nên một hệ sinh thái đầu tư vững mạnh. Những kinh nghiệm quý báu này, từ cải cách hành chính đến xây dựng niềm tin, là tài sản vô giá, không chỉ cho Quảng Ninh mà còn là kinh nghiệm cho các địa phương khác trên con đường phát triển.
Từ khoá: Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, lãnh đạo, xây dựng môi trường đầu tư, bài học kinh nghiệm.
1. Đặt vấn đề
Giai đoạn từ năm 2015 – 2024 đánh dấu một bước chuyển mình mạnh mẽ của tỉnh Quảng Ninh trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo dựng niềm tin vững chắc cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Dưới sự lãnh đạo tập trung và quyết liệt của Đảng bộ tỉnh, Quảng Ninh đã thực hiện một loạt các giải pháp đồng bộ, đột phá, mang tính chiến lược nhằm khơi thông nguồn lực, tạo động lực tăng trưởng mới. Đảng bộ tỉnh đã tập trung cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), tạo dựng niềm tin vững chắc trong cộng đồng doanh nghiệp. Việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, từ các tuyến cao tốc đến cảng biển, sân bay quốc tế… đã mở ra cánh cửa giao thương và thúc đẩy phát triển kinh tế. Đặc biệt, sự minh bạch và công khai trong các thủ tục hành chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đến với Quảng Ninh.
2. Những kết quả nổi bật của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong lãnh đạo xây dựng môi trường đầu tư giai đoạn 2015 – 2024
Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam, là một tỉnh miền núi – duyên hải với địa hình độc đáo. Phía Tây của tỉnh dựa lưng vào núi rừng trùng điệp; phía Đông hướng ra Vịnh Bắc bộ với bờ biển khúc khuỷu và nhiều cửa sông. Với diện tích 6.178km², Quảng Ninh không chỉ có vị trí chiến lược cho phát triển kinh tế – xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là than đá. Tỉnh cũng là trung tâm sản xuất vật liệu xây dựng và cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước và xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP của tỉnh. Hệ thống cảng biển, cảng nước sâu và cửa khẩu giao thương với các thị trường lớn là những lợi thế vượt trội mà không phải địa phương nào cũng có được.
Ngoài ra, Quảng Ninh còn được thiên nhiên ưu đãi với nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: vịnh Hạ Long, Yên Tử, bãi cọc Bạch Đằng, đền Cửa Ông, đình Quan Lạn, đình Trà Cổ, núi Bài Thơ… Những yếu tố “thiên tạo” và “nhân tạo” này tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch thể thao và du lịch văn hóa tâm linh. Bên cạnh những lợi thế về địa lý và tài nguyên, Quảng Ninh còn có truyền thống “kỷ luật và đồng tâm” gắn với cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam. Tư duy lãnh đạo đúng đắn của các thế hệ lãnh đạo tỉnh đã biến những tiềm năng này thành động lực và nguồn lực cho sự phát triển của tỉnh.
Trong giai đoạn 2015 – 2024, Quảng Ninh đã chứng minh sự vươn mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội. Thành công này là kết quả của sự lãnh đạo quyết liệt và sáng tạo của Đảng bộ tỉnh trong việc xây dựng một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và hấp dẫn. Những kết quả nổi bật của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong việc lãnh đạo xây dựng môi trường đầu tư giai đoạn 2015 – 2024 như sau:
Một là, tăng trưởng kinh tế ấn tượng, chuyển dịch cơ cấu tích cực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, kinh tế Quảng Ninh duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước. GRDP bình quân giai đoạn 2015 – 2024 đạt mức tăng trưởng ấn tượng, cho thấy hiệu quả của các chính sách thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của tỉnh. “Tỉnh Quảng Ninh trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của khu vực phía bắc với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) hai con số trong 7 năm liên tiếp (từ năm 2016 – 2022); trong đó, năm 2020 đạt 10,05%; năm 2021 và năm 2022 đều đạt 10,28% trong bối cảnh đại dịch Covid -19 (xếp thứ 13/63 toàn quốc và 3/7 tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng bền vững.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, tính đến hết năm 2022 ước đạt 269 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt trên 8.200 USD, cao nhất khu vực phía Bắc; năng suất lao động tăng trên 13%. Tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2020 – 2022 đạt trên 156,2 nghìn tỷ đồng, trong đó, thu nội địa đạt trên 117,8 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân khoảng 10%/năm và luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước. Tổng chi đầu tư phát triển đạt trên 48,3 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân hằng năm đều đạt và vượt kế hoạch; tỷ trọng chi đầu tư tăng lên, đạt khoảng 57 – 58% tổng ngân sách”1.
Hai là, thu hút đầu tư mạnh mẽ, khẳng định vị thế điểm đến hấp dẫn.
Quảng Ninh đã thu hút được lượng vốn đầu tư lớn từ cả trong và ngoài nước, đặc biệt là vào các lĩnh vực du lịch, hạ tầng và công nghiệp. Các dự án lớn, như các khu nghỉ dưỡng cao cấp, các khu công nghiệp hiện đại, các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm đã được triển khai thành công, tạo nên diện mạo mới cho tỉnh. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Quảng Ninh liên tục nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước, phản ánh môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, minh bạch và hiệu quả. Năm 2021 và 2022, chỉ số PCI của Quảng Ninh giữ vững xếp hạng ở vị trí thứ 01/63 tỉnh, thành phố với tổng điểm lần lượt là 73,02 điểm và 72,95 điểm.
Với kết quả trên, tỉnh Quảng Ninh duy trì 6 năm liên tiếp xếp thứ 01/63 và 10 năm liên tiếp trong top 5 các tỉnh, thành phố có chất lượng điều hành kinh tế xuất sắc nhất cả nước; năm 2021, chỉ số PAR INDEX đạt 91,14 điểm, xếp thứ 02/63 tỉnh, thành phố; chỉ số SIPAS đạt 94,07%, xếp thứ 01/63 tỉnh, thành phố. Năm 2022, chỉ số PAR INDEX đạt 90,10 điểm, xếp thứ 01/63 tỉnh, thành phố; chỉ số SIPAS đạt 87,59%, đứng thứ 01/63 tỉnh, thành phố; chỉ số PAPI đạt 47,88 điểm, đứng thứ 01/61 tỉnh, thành phố được công bố kết quả; tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2021 đạt 88.728 tỷ đồng, tăng trên 10% cùng kỳ; năm 2022 đạt 97.761 tỷ đồng, tăng 10,28% cùng kỳ; năm 2023, đạt 104.217 tỷ đồng, tăng 10% cùng kỳ2. Đây là minh chứng cho những nỗ lực không ngừng của Đảng bộ tỉnh trong lãnh đạo cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư.
Ba là, phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tạo sức bật cho kinh tế.
Quảng Ninh đã đầu tư mạnh mẽ vào phát triển hạ tầng giao thông, với các công trình trọng điểm, như: cao tốc Hạ Long – Vân Đồn, sân bay Vân Đồn, cảng biển quốc tế. Hệ thống giao thông hiện đại giúp tăng cường kết nối của tỉnh với các địa phương khác và quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch. Hạ tầng đô thị và du lịch được nâng cấp, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và du khách. Các khu đô thị mới được quy hoạch và xây dựng hiện đại, các điểm đến du lịch được đầu tư, nâng cấp, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Quảng Ninh.
Tỉnh đi đầu thực hiện thành công phương thức huy động nguồn lực đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP), với phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”; huy động được nguồn lực lớn từ các thành phần kinh tế, trở thành giải pháp đột phá để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại. Là địa phương duy nhất trong cả nước huy động tư nhân đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai, đường cao tốc thúc đẩy liên kết vùng và hợp tác quốc tế. Tổng số vốn đầu tư công giai đoạn 2005 – 2020 là 119.082 tỷ đồng, tăng bình quân 20,7%/năm.
Đến nay, đã đầu tư hoàn thành gần 100km đường cao tốc và khánh thành cao tốc Vân Đồn – Móng Cái với tổng chiều dài trên 80km vào ngày 01/9/2022; nâng cấp, cải tạo 130,3 km quốc lộ; làm mới và nâng cấp 65,7 km đường tỉnh; cải tạo, làm mới 743,6 km đường huyện, đường đô thị và 2.440,9 km đường giao thông nông thôn, miền núi. Trong đó kết quả ấn tượng nhất là hoàn chỉnh hệ thống đường cao tốc Hạ Long – Hải Phòng, cao tốc Hạ Long – Vân Đồn, Cảng hàng không quốc tế Quảng Ninh, Cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai và hàng loạt công trình hạ tầng giao thông kết nối đến các cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế. Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh đã chủ động, phối hợp với các tỉnh, thành phố giáp ranh xây dựng, nâng cấp hạ tầng giao thông động lực, thúc đẩy liên kết vùng như cầu Triều, cầu Rừng, cầu Lại Xuân, quốc lộ 4B…3.
Đồng thời, hạ tầng viễn thông cơ bản đáp ứng yêu cầu cho việc triển khai chuyển đổi số toàn diện của tỉnh, như: Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 230/KH-UBND ngày 07/9/2023 về phát triển hạ tầng số tỉnh đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 và kế hoạch triển khai năm 2023. Từ đó đã tạo ra hạ tầng số, đã chỉ đạo doanh nghiệp viễn thông triển khai xây dựng trạm phát sóng thông tin di động để nâng cao diện tích phủ sóng băng thông rộng 4G trên địa bàn tỉnh với tổng số 6.111 trạm, trong đó có 2.911 trạm 4G và 5G (chiếm 47,6%). Bảo đảm hạ tầng Internet băng rộng đã được triển khai tại 177/177 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh và tỷ lệ dân số được phủ sóng mạng di động là 100%; hệ thống mạng WAN phục vụ chính quyền điện tử tỉnh Quảng Ninh trên đường truyền số liệu chuyên dùng triển khai đến 100% các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, thành phố và các xã, phường, thị trấn; hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến gồm 239 điểm cầu triển khai từ cấp tỉnh đến cấp huyện và đến 100% các xã, phường, thị trấn qua đường truyền số liệu chuyên dùng4.
Bốn là, cải cách hành chính quyết liệt, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện cải cách hành chính mạnh mẽ, hướng đến xây dựng một chính quyền kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thủ tục hành chính được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.Hệ thống thông tin một cửa điện tử được triển khai đồng bộ, giúp người dân và doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến, tiết kiệm thời gian và chi phí. Chính quyền các cấp tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Đã kết nối Hệ thống thông tin giải quyết Trung tâm hành chính cấp tỉnh (thông qua Phần mềm một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công) với Kho dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Cổng dịch vụ công Quốc gia. Tỷ lệ thanh toán trực tuyến qua Cổng quốc gia đến thời điểm báo cáo là 30%. Là địa phương thứ 3 kết nối thành công vào cơ sở dữ liệu dân cư vào tháng 5/2022 và sau khi kết nối đã khai thác có hiệu quả đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã.
Đến nay, tỉnh đã kết nối được 13/18 cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quan trọng, nền tảng của quốc gia; còn 5/18 các cơ sở dữ liệu quan trọng sau chưa thực hiện việc kết nối do nguyên nhân từ các bộ, ngành liên quan chưa có hướng dẫn chi tiết về cách thức kết nối và chia sẻ thông tin nên chưa có cơ sở để thực hiện. 100% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ trực tuyến được định danh và xác thực thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Năm 2023, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ của cả tỉnh là 610 thủ tục phát sinh hồ sơ trực tuyến trên tổng số 1.125 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, đạt 54% (100% thủ tục hành chính đủ điều kiện được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình); số lượng hồ sơ trực tuyến 386.973 trên tổng số hồ sơ 455.263, đạt tỷ lệ 85%5.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Quảng Ninh đã chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Các cơ sở đào tạo nghề được đầu tư nâng cấp, mở rộng, đào tạo các ngành nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp. Tỉnh có nhiều chính sách thu hút nhân tài, lao động có tay nghề cao về làm việc, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính quyền tỉnh phối hợp với các doanh nghiệp để tổ chức các chương trình đào tạo lại, nâng cao kỹ năng cho người lao động.
Nhằm góp phần đạt mục tiêu xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả, tỉnh Quảng Ninh luôn quan tâm đến việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, tỉnh đã đưa ra nhiều chính sách, nội dung mới nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng, quan tâm tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo nguồn cán bộ trẻ; dành ít nhất 50% chỉ tiêu tuyển dụng mới để tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là các trường hợp sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ theo tiêu chuẩn của Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ6.
Ngày 22/12/2023, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 312/KH-UBND tuyển dụng công chức vào làm việc tại các cơ quan hành chính tỉnh năm 2023, trong đó cũng dành 50% chỉ tiêu nguồn nhân lực chất lượng cao theo yêu cầu của tỉnh không bao gồm các vị trí việc làm đặc thù; hiện đã tiến hành xong thi vòng 1 và xét tuyển nhân lực chất lượng cao. Năm 2023, nhằm tiếp tục đổi mới phương thức đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, đa chiều, lấy chất lượng, sản phẩm đầu ra để làm thước đo đánh giá, gắn đánh giá cá nhân với tập thể, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 30/2023/QĐ-UBND ngày 20/11/2023 Quy định về đánh giá xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, theo đó, tỉnh đã triển khai đồng bộ quy định về tỷ lệ đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm thực hiện. Tỉnh đã ban hành và triển khai Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2021 – 2025; Kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nhận thức về chuyển đổi số năm 2022 và 2023; Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ, công chức xã giai đoạn 2022 – 2025; Kế hoạch bồi dưỡng đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026; đề xuất nội dung triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại chỗ, kết hợp tăng cường tri thức trẻ trong phát triển bền vững khu vực biên giới. Đồng thời, hằng năm, UBND tỉnh đều ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trong toàn hệ thống chính trị để triển khai đồng bộ, hiệu quả7.
Sáu là, xây dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh chú trọng xây dựng môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Các thiết chế văn hóa, thể thao được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, rèn luyện thể chất của người dân. Chính quyền tỉnh quan tâm đến các vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm bảo đời sống của người dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2021 đạt 88.728 tỷ đồng; năm 2022 đạt 97.761 tỷ đồng; năm 2023 đạt 104.217 tỷ đồng. Tổng thu hút đầu tư ngoài ngân sách trong 3 năm đạt 573.026 tỷ đồng, thu hút vốn đầu tư FDI trong 03 năm đạt trên 6,83 tỷ USD8. Tỉnh đã phát triển khá cân đối giữa các vùng miền, tạo bước chuyển lớn trong phát triển văn hoá, xã hội, con người, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao mức sống và chất lượng sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng miền, hoàn thành trước nhiều mục tiêu của cả giai đoạn 2020 – 2025. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo quốc gia được giữ vững; hoạt động đối ngoại được chú trọng mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển.
Bảy là, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy.
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện đối với sự phát triển của tỉnh. Tỉnh ủy đã có nhiều đổi mới trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Sau khi ban hành Nghị quyết, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết đến đảng, đoàn, ban cán sự đảng, các ban đảng, các tổ chức đảng bộ trực thuộc. Trên cơ sở các chỉ đạo của Tỉnh ủy, các cấp ủy, tổ chức Đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy, các sở, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương đã ban hành chương trình hành động, kế hoạch để thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU và chỉ đạo các cơ quan, phòng chuyên môn bám sát chương trình hành động của UBND tỉnh, kế hoạch của cơ quan, đơn vị, địa phương và tình hình thực tế để xây dựng kế hoạch và phối hợp với MTTQ, các đoàn thể chính trị – xã hội cùng cấp tổ chức thực hiện tại cơ quan, đơn vị, địa phương9.
Chín là, tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng cơ hội đầu tư và phát triển.
Quảng Ninh đẩy mạnh hợp tác quốc tế, mở rộng cơ hội đầu tư và phát triển. Tỉnh có nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh Quảng Ninh đến các nhà đầu tư quốc tế. Quảng Ninh tăng cường hợp tác với các địa phương trong và ngoài nước, trao đổi kinh nghiệm, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội. Nhằm tiếp tục duy trì, giữ vững các Chỉ số trong giai đoạn 2021 – 2025, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện. Để phối hợp triển khai Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 20/01/2022, UBND tỉnh và Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã ký Bản Ghi nhớ về hợp tác triển khai cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; hỗ trợ doanh nghiệp giai đoạn 2022 – 2025; ban hành Kế hoạch số 115/KH-UBND ngày 12/4/2022 triển khai thực hiện Bản Ghi nhớ trên. UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo triển khai các bộ chỉ số đánh giá về cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh thuộc tỉnh như: PAR Index, SIPAS, DDCI, DGI, ICT.
3. Một số bài học kinh nghiệm
Trong bức tranh phát triển kinh tế đầy năng động của Việt Nam, Quảng Ninh nổi lên như một điểm sáng rực rỡ, thu hút sự chú ý của cả giới đầu tư trong và ngoài nước. Giai đoạn 2015 – 2024 đánh dấu một bước chuyển mình mạnh mẽ của tỉnh, biến nơi đây từ một vùng đất giàu tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sôi động, một điểm đến đầu tư hấp dẫn. Thành công này không đến một cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức triển khai thực hiện thống nhất ý chí, đồng sức, đồng lòng, tầm nhìn chiến lược và những bài học kinh nghiệm sâu sắc của Đảng bộ tỉnh trong công cuộc xây dựng môi trường đầu tư.
Thứ nhất, từ nhận thức đến hành động – bài học về tuyên truyền và đồng thuận. Một trong những bài học kinh nghiệm quý giá đầu tiên của Quảng Ninh chính là sự chú trọng đặc biệt đến công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng môi trường đầu tư. Thấm nhuần tư tưởng và bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh của sự đoàn kết và thống nhất, Đảng bộ tỉnh đã xác định rõ ràng rằng, chỉ khi nhận thức đúng, tư tưởng thống nhất thì hành động mới đồng bộ và hiệu quả.
Thực tiễn đã chứng minh, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân về vai trò của môi trường đầu tư có ý nghĩa then chốt trong việc hoạch định chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện. Tiếp nối những thành công của giai đoạn trước, từ năm 2015 đến nay, công tác tuyên truyền tiếp tục được Đảng bộ tỉnh đặc biệt coi trọng và phát triển lên một tầm cao mới. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền cụ thể, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ công chức. Ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội và các nền tảng số được đẩy mạnh trong công tác tuyên truyền, cải cách thủ tục hành chính.
Hội nghị, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu được tổ chức thường xuyên, đưa nội dung xây dựng môi trường đầu tư vào các buổi giao ban, kỳ họp Hội đồng nhân dân. Sở Thông tin và Truyền thông chủ động hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, xây dựng chuyên trang, chuyên mục về cải thiện môi trường đầu tư. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình tăng cường phát sóng và đăng tải hàng ngàn tin, bài, phóng sự, chuyên đề, giúp cho người dân và doanh nghiệp nắm bắt thông tin một cách kịp thời và chính xác.
Thứ hai, quy hoạch và cơ chế chính sách – nền tảng cho phát triển bền vững.
Trong giai đoạn 2015 – 2024, Quảng Ninh tiếp tục chú trọng đến công tác quy hoạch, đặc biệt là các yếu tố về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Tỉnh đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiều quy hoạch quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực được xây dựng và rà soát, điều chỉnh một cách khoa học và bài bản. Nhiều nghị quyết, chương trình hành động, quyết định, quy định, chỉ thị về xây dựng môi trường đầu tư được ban hành, tạo ra một khung pháp lý thông thoáng và minh bạch. Tỉnh cũng tích cực phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, các tổng công ty lớn, huy động chuyên gia quốc tế để triển khai các dự án quy hoạch quan trọng.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao – yếu tố quyết định thành công.
Nhận thức sâu sắc rằng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của doanh nghiệp và địa phương, Quảng Ninh đã tập trung vào việc đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tế, thu hút nhân lực chất lượng cao và nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công chức.
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và đào tạo nghề cho lao động nông thôn được xây dựng và triển khai một cách bài bản. Tỉnh tích cực phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc làm để đào tạo nhân lực có tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.
Cơ chế, chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao được đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có trình độ chuyên môn cao đến làm việc và sinh sống tại Quảng Ninh. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo được rà soát, sắp xếp lại, đầu tư cơ sở vật chất được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ tư, cải cách hành chính – nâng cao minh bạch và hiệu quả.
Nhận thức rõ ràng rằng thủ tục hành chính rườm rà, quan liêu, nhũng nhiễu là rào cản lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế, Quảng Ninh đã không ngừng nỗ lực để xây dựng một nền hành chính phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo.
Nhiều nghị quyết chuyên đề về đẩy mạnh cải cách hành chính được ban hành, các chương trình, kế hoạch cụ thể được xây dựng và triển khai một cách quyết liệt. Bộ máy hành chính được tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng cao. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được thực hiện đồng bộ, hệ thống thông tin một cửa điện tử được xây dựng và đưa vào vận hành, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính.
Quảng Ninh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI). Thông tin được công khai minh bạch, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận thông tin một cách dễ dàng.
4. Kết luận
Giai đoạn 2015 – 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của Quảng Ninh, minh chứng cho sự lãnh đạo quyết liệt và sáng tạo của Đảng bộ tỉnh trong kiến tạo môi trường đầu tư. Những thành tựu này là tiền đề quan trọng để Quảng Ninh tiếp tục bứt phá, trở thành địa phương tiên phong trong công cuộc đổi mới. Những kinh nghiệm quý báu của Đảng bộ tỉnh, như cải cách hành chính, đầu tư hạ tầng, và xây dựng niềm tin, đã tạo nên “Quảng Ninh kiểu mẫu”, môi trường đầu tư lý tưởng; phương châm lãnh đạo lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lắng nghe và thấu hiểu, đã tạo nên những giải pháp thiết thực. Đảng bộ tỉnh không ngừng đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, huy động sức mạnh toàn dân để xây dựng Quảng Ninh ngày càng giàu đẹp. Với nền tảng vững chắc, Quảng Ninh hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế biển năng động, hiện đại, bền vững. Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh cải cách, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xúc tiến đầu tư và chú trọng phát triển kinh tế xanh, kinh tế số. Quảng Ninh sẽ không ngừng học hỏi, đổi mới, phát huy những bài học kinh nghiệm để hiện thực hóa khát vọng “xanh, sạch, đẹp, văn minh, hiện đại”, xứng đáng là địa phương đi đầu trong phát triển đất nước.
Chú thích:
1, 3. Thực trạng và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/829012/thuc-trang-va-dinh-huong-phat-trien-kinh-te—xa-hoi-cua-tinh-quang-ninh-den-nam-2030%2C-tam-nhin-nam-2045.aspx, ngày 20/10/2023.
2, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Tỉnh uỷ Quảng Ninh. Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 về chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 -2030.
2. Chính phủ. Nghị quyết số 131/NQ-CP ngày 06/10/2022 về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp.
3. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025, Quảng Ninh.
4. Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Nghị quyết số 124/NQ-HĐND ngày 04/11/2022 về “Một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh gắn với chuyển đổi số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.