Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường – Thực trạng và giải pháp

TS. Lê Toàn Thắng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Lê Khánh Vi
Trường Đại học Luật Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về môi trường hiện đang vẫn còn bất cập, vì vậy để khắc phục những bất cập nhằm bảo đảm hiệu quả quản lý môi trường, cần có giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về môi trường. Bài viết nghiên cứu thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường thời gian tới.

Từ khóa: Văn bản quy phạm pháp luật, lĩnh vực môi trường, cơ quan nhà nước trung ương.

1. Đặt vấn đề

Môi trường đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, như: biến đổi khí hậu, suy thoái và ô nhiễm, đòi hỏi sự can thiệp mạnh mẽ từ hệ thống pháp luật. Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, điển hình là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn. Việt Nam đã tham gia một số thỏa thuận quốc tế về môi trường như Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc. Để thực hiện hiệu quả các cam kết này, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản do cơ quan nhà nước trung ương ban hành.

2. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường

Thứ nhất, về số lượng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương được ban hành trong lĩnh vực môi trường

Trong lĩnh vực môi trường, số lượng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước trung ương ban hành ngày càng gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh đòi hỏi bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngày càng trở nên cấp thiết. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường của các cơ quan nhà nước trung ương đã có những bước tiến đáng kể trong việc đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Công ước Paris về biến đổi khí hậu. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành cũng tăng đáng kể, với hơn 60 văn bản dưới luật được ban hành để hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung năm 2020. Đến hết năm 2024, một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành quy định cụ thể về quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kiểm định môi trường bên cạnh những quy định về quy trình xử lý chất thải và quản lý tài nguyên nước đã được nâng cao nhằm bảo đảm tính khả thi và hiệu quả trong thực tiễn.

Chính phủ ban hành một loạt nghị định quan trọng liên quan đến tài nguyên nước, quản lý khí thải, bảo vệ tầng ô-dôn và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước; đã ban hành 24 thông tư hướng dẫn nhằm cụ thể hóa các quy định pháp luật, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường. Những nỗ lực này góp phần hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và tạo điều kiện cho phát triển bền vững.

Thứ hai, về chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương được ban hành trong lĩnh vực môi trường.

Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa các quy định pháp luật trong đời sống xã hội. Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện trên một số phương diện chính.

Khung pháp lý ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, được Quốc hội thông qua vào ngày 17/11/2020. Luật đã thể hiện sự chuyển đổi mạnh mẽ từ cách tiếp cận quản lý môi trường bị động sang chủ động phòng ngừa ô nhiễm, đồng thời cụ thể hóa các nguyên tắc phát triển bền vững. Đặc biệt, Luật đã tích hợp nhiều khái niệm mới như kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện mới.

Tính minh bạch và sự tham gia của cộng đồng vào quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật được nâng cao. Tính minh bạch trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có những cải thiện đáng kể, thể hiện qua việc công khai dự thảo và lấy ý kiến rộng rãi từ các bên liên quan. Trong quá trình soạn thảo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các nghị định, thông tư đã thu hút hàng nghìn lượt ý kiến đóng góp từ doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ như WWF Việt Nam và người dân.

Tính hợp hiến, hợp pháp và đồng bộ được bảo đảm. Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường đều được xây dựng và ban hành dựa trên nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp, bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và các luật liên quan. Trước khi được ban hành, các văn bản này trải qua quá trình thẩm định nghiêm ngặt để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng để nhằm hạn chế xung đột pháp lý và tạo thuận lợi cho việc thực thi pháp luật.

Thứ ba, về tuân thủ quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường.

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành trong thời gian qua cơ bản được ban hành đúng quy trình. Kỹ thuật soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường của các cơ quan nhà nước trung ương đã có những cải tiến đáng kể trong thời gian gần đây, giúp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách bảo vệ môi trường. Một trong những điểm mạnh nổi bật là sự tăng cường tham vấn ý kiến chuyên gia, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân trong quá trình xây dựng chính sách. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ số trong quá trình soạn thảo và lấy ý kiến góp ý cũng được thực hiện tốt.

Về một số hạn chế trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường hiện nay thể hiện trên các khía cạnh, như: một số quy định gây khó khăn cho việc áp dụng, nhất là ở cấp địa phương. Việc áp dụng chế tài xử phạt đối với các hộ dân, đặc biệt là hộ nghèo, gặp nhiều trở ngại; các quy định xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường chưa thực sự linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế. Nhiều quy định mới có hiệu lực nhưng vẫn phụ thuộc vào các nghị định, thông tư cũ, dẫn đến mâu thuẫn trong áp dụng. Hệ thống văn bản quy định về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường thường xuyên được ban hành, điều chỉnh thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc thực hiện và áp dụng trên địa bàn. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thực thi, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ, rút ngắn thời gian ban hành hướng dẫn chi tiết và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý môi trường, giúp các doanh nghiệp và địa phương dễ dàng tuân thủ quy định hơn.

Các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường được ban hành gần đây tại Việt Nam đã có sự điều chỉnh sát với thực tế, phản ánh rõ những thách thức môi trường hiện nay và tham chiếu đến xu hướng toàn cầu. Mặc dù các văn bản mới đã có sự gắn kết chặt chẽ với Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, nhưng vẫn còn những bất cập trong quá trình thực thi. Một trở ngại khác là sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan. Chính sách bảo vệ môi trường đòi hỏi sự hợp tác giữa nhiều bộ ngành, địa phương, nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ nhưng trên thực tế vẫn còn tình trạng chồng chéo trong quản lý, làm giảm hiệu quả thực thi. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của các văn bản này, cần bổ sung hướng dẫn chi tiết, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý.

Bên cạnh những điểm mạnh, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục như tính cụ thể trong quy định chưa cao ở một số văn bản, chậm trễ trong ban hành thông tư hướng dẫn sau khi luật và nghị định đã có hiệu lực, gây khó khăn trong quá trình triển khai. Để tiếp tục nâng cao chất lượng soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật môi trường, cần đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành, rút ngắn thời gian ban hành hướng dẫn thực thi, đồng thời tiếp tục ứng dụng công nghệ trong lấy ý kiến và công khai minh bạch chính sách.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường

(1) Hoàn thiện nội dung quy định pháp luật.

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tổng rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến môi trường để phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Đối với những văn bản quy phạm pháp luật với các điều khoản có nội dung chưa cụ thể, khó triển khai, cần bổ sung chi tiết hoặc hướng dẫn thực hiện rõ ràng để bảo đảm tính khả thi. Nhiều quy định về môi trường hiện đang nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, gây khó khăn trong áp dụng. Điều này đòi hỏi một sự hợp nhất, hệ thống hóa nhằm tạo thuận lợi cho việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực môi trường.

Cần thiết lập cơ chế rà soát pháp lý định kỳ nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các xung đột giữa các quy định về môi trường với các lĩnh vực khác như đầu tư, xây dựng, tài nguyên nước, năng lượng, nông nghiệp…

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu pháp luật môi trường, giúp các cơ quan quản lý dễ dàng tra cứu, đối chiếu và cập nhật các văn bản mới, từ đó hạn chế tình trạng chồng chéo hoặc thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, cần bổ sung quy định về nguyên tắc ưu tiên áp dụng trong trường hợp có sự xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật, giúp xác định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan liên quan và tạo cơ sở pháp lý nhất quán trong thực tiễn áp dụng.

Quy trình đánh giá tác động pháp luật, được quy định tại Điều 35 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) cần được thực hiện hiệu quả hơn. Để đánh giá tác động pháp luật một cách khách quan, hiệu quả có thể thuê các chuyên gia độc lập, tổ chức hội thảo lấy ý kiến từ doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân cũng như sử dụng mô hình phân tích định lượng để dự đoán hiệu quả của văn bản.

Quy trình đánh giá tác động cần được cụ thể hóa hơn trong Luật, ví dụ yêu cầu sử dụng mô hình phân tích định lượng và tổ chức hội thảo lấy ý kiến từ các chuyên gia độc lập, thay vì chỉ dừng lại ở việc lấy ý kiến hình thức như hiện nay. Điều này sẽ bảo đảm các văn bản được triển khai hiệu quả hơn, giảm thiểu khoảng cách giữa quy định và thực tiễn.

(2) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường.

Chính phủ và các bộ, ngành cần phối hợp với các trường đại học, viện nghiên cứu để thiết kế chương trình đào tạo chuyên sâu về pháp luật môi trường, kỹ năng lập pháp và thực tiễn thi hành pháp luật. Các cơ quan nhà nước trung ương cần lên kế hoạch tổ chức các khóa bồi dưỡng định kỳ về kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, cập nhật kiến thức pháp luật mới nhất, cũng như những xu hướng pháp luật môi trường trên thế giới cho công chức có nhiệm vụ soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực môi trường. Bên cạnh kiến thức lý thuyết, cơ quan nhà nước trung ương cần tăng cường tổ chức các đợt thực tế, khảo sát tại các địa phương, doanh nghiệp, khu công nghiệp để đội ngũ công chức hiểu rõ và sát hơn những vấn đề môi trường trong thực tiễn cần điều chỉnh bằng pháp luật.

Đội ngũ công chức tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được đào tạo về phương pháp đánh giá tác động môi trường, đánh giá tác động chính sách để bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật có tính khả thi và không gây tác động tiêu cực ngoài ý muốn. Điều này đòi hỏi việc thiết lập nhóm chuyên gia độc lập để đánh giá tác động của các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành, giúp nâng cao tính khách quan và khoa học trong quá trình xây dựng pháp luật. Đồng thời, các cơ quan cần khuyến khích công chức tham gia các chương trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ các nước có hệ thống pháp luật môi trường tiên tiến để nâng cao tư duy và khả năng phân tích và đánh giá tác động pháp luật trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.

Để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, ngoài nguồn nhân lực trong cơ quan nhà nước, cần có sự bổ trợ và hỗ trợ từ các chuyên gia, nhà khoa học và các tổ chức nghiên cứu độc lập. Việc mở rộng hợp tác với các bên liên quan không chỉ giúp bảo đảm tính khoa học, thực tiễn của các quy định pháp luật mà còn góp phần nâng cao tính khả thi trong quá trình thực thi. Trước hết, cần tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm sử dụng tối đa tri thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn từ đội ngũ chuyên gia. Bên cạnh đó, cần chú trọng tham vấn ý kiến doanh nghiệp và cộng đồng để tăng tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, việc xây dựng cơ chế hợp tác công tư là một hướng đi quan trọng để tiếp cận các nguồn lực, công nghệ và kinh nghiệm tiên tiến. Hợp tác với các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường sẽ giúp cơ quan quản lý có thêm nguồn tài trợ, tiếp thu mô hình chính sách hiệu quả từ các quốc gia phát triển, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường.

(3) Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.

Việc phối hợp giữa các cơ quan ở trung ương trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật chặt chẽ hơn, dựa trên khung pháp lý hiện hành, như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đặc biệt về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Chính phủ có thể thiết lập một cơ chế phối hợp liên ngành rõ ràng, trong đó quy định cụ thể vai trò của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là chủ trì, đầu mối, cùng trách nhiệm của các bộ liên quan trong từng giai đoạn soạn thảo, thẩm định và ban hành.

Ngoài ra, việc thiết lập cơ quan điều phối chung hoặc tổ công tác liên ngành của Chính phủ với nhiệm vụ điều phối, rà soát và thống nhất các nội dung pháp luật về môi trường giữa các bộ, ngành trước khi ban hành sẽ giúp hoàn thiện và nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường.

Các Ủy ban của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, cần phối hợp chặt chẽ với Chính phủ trong quá trình soạn thảo và thẩm định văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với thực tiễn. Cần tiếp tục nâng cao nâng cao năng lực thẩm tra, phản biện của Quốc hội với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường.

Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, Chính phủ và các bộ, ngành cần tham vấn ý kiến từ Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhằm bảo đảm các quy định pháp luật không xung đột với hệ thống pháp luật hiện hành và có thể được áp dụng hiệu quả trong thực tế. Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp cũng cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan hành pháp để kiểm tra việc thực thi văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định chưa phù hợp.

(4) Tăng cường giám sát, kiểm tra, đánh giá việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương trong lĩnh vực môi trường.

Nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội và các cơ quan nhà nước trung ương có thẩm quyền. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan giám sát chuyên trách, như: Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cần tăng cường công tác giám sát quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Quốc hội có thể tổ chức các đoàn giám sát chuyên đề về việc ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến môi trường, tập trung vào việc đánh giá tính hợp pháp, đồng bộ và hiệu quả của các quy định, yêu cầu các bộ, ngành giải trình rõ ràng về nội dung, cơ sở khoa học và thực tiễn của các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là những văn bản có tác động lớn đến cộng đồng và doanh nghiệp. Các Ủy ban của Quốc hội cần thẩm tra chặt chẽ các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về môi trường trước khi trình Quốc hội thông qua, bảo đảm tính minh bạch, hợp lý và khả thi.

Kiểm tra, rà soát chặt chẽ văn bản quy phạm pháp luật trước và sau khi ban hành. Bộ Tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát kỹ các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về môi trường nhằm phát hiện những nội dung chưa phù hợp với Hiến pháp, luật hiện hành hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường cơ chế phản biện và lấy ý kiến khi thực hiện ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực môi trường nói riêng. Việc lấy ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức xã hội và doanh nghiệp cần được thực hiện rộng rãi trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm các quy định có tính thực tiễn và không gây khó khăn trong quá trình thực thi.

Tăng cường kiểm tra thực tế việc thực thi văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường tại các bộ, ngành. Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tư pháp và Thanh tra Chính phủ cần phối hợp tổ chức kiểm tra định kỳ và đột xuất việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương. Các cơ quan trung ương và địa phương nên có phương án đẩy mạnh phối hợp, xây dựng cơ chế giám sát chéo để giám sát lẫn nhau, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm trong thực thi văn bản quy phạm pháp luật về môi trường. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước trung ương cần kiểm tra việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế, từ đó đánh giá tác động của các quy định pháp luật đối với công tác bảo vệ môi trường và cuộc sống người dân, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung đối với các quy định chưa phù hợp.

(5) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong công tác xây dựng văn bản quy pháp luật.

Việc xây dựng một hệ thống dữ liệu pháp luật môi trường hiện đại là giải pháp quan trọng giúp các cơ quan quản lý dễ dàng tra cứu, cập nhật và đối chiếu các quy định hiện hành. Một hệ thống dữ liệu được thiết kế khoa học sẽ giúp tích hợp các văn bản pháp luật liên quan đến môi trường với các lĩnh vực khác như đất đai, xây dựng và đầu tư, qua đó bảo đảm tính đồng bộ trong chính sách quản lý.

Bên cạnh đó, trí tuệ nhân tạo (AI) có thể trở thành công cụ hữu ích trong quá trình soạn thảo và phân tích văn bản quy phạm pháp luật. Với khả năng xử lý dữ liệu nhanh chóng và chính xác, AI có thể hỗ trợ rà soát các quy định hiện hành để phát hiện những xung đột pháp lý, giúp các cơ quan quản lý điều chỉnh kịp thời nhằm bảo đảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật. Hơn nữa, AI còn giúp tự động hóa quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bằng cách đề xuất nội dung dự thảo dựa trên cơ sở dữ liệu pháp lý, giúp tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ lập pháp.

Để tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, việc phát triển một nền tảng trực tuyến dùng chung là điều cần thiết. Một cổng thông tin điện tử liên thông sẽ giúp các cơ quan quản lý dễ dàng trao đổi ý kiến, chia sẻ tài liệu và phối hợp hiệu quả hơn trong công tác xây dựng pháp luật. Bên cạnh đó, việc tạo cầu nối giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước thông qua các kênh thông tin trực tuyến, trực tiếp, người dân và doanh nghiệp có thể phản ánh những bất cập trong việc thực thi văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, từ đó các cơ quan nhà nước có thể kịp thời điều chỉnh chính sách.

Xây dựng hệ thống quản lý tiến độ và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo mô hình điện tử, trong đó mỗi văn bản đều được theo dõi xuyên suốt từ khâu đề xuất chính sách, lấy ý kiến, thẩm định đến ban hành chính thức. Trên nền tảng này, các cơ quan quản lý có thể dễ dàng phân công, cập nhật và kiểm soát tiến độ từng bước xử lý; đồng thời, hệ thống có thể cảnh báo khi văn bản bị trì hoãn hoặc có nguy cơ chậm tiến độ so với kế hoạch.

Ngoài ra, công nghệ số còn hỗ trợ tự động hóa một số công đoạn kỹ thuật như chuẩn hóa định dạng văn bản, kiểm tra tính hợp lệ về thể thức hoặc rà soát sự tương thích pháp lý giữa các quy định hiện hành. Những tính năng này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian mà còn góp phần nâng cao chất lượng pháp lý và tính nhất quán của văn bản, hạn chế sai sót và phải sửa đổi sau khi ban hành. Đồng thời, nền tảng công nghệ có thể tích hợp cơ chế góp ý trực tuyến, nhận xét và phản hồi giữa các cơ quan chuyên môn, giúp rút ngắn thời gian xử lý và bảo đảm luồng thông tin liên thông, không bị gián đoạn giữa các khâu và cấp thẩm quyền.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài nguyên và Môi Trường (2024). Báo cáo số 282/BC-BTNMT về kết quả công tác tư pháp năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2025.
2. Bộ Tư pháp (2024). Báo cáo tổng kết Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020.
3. Cao Vũ Minh (2021). Thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc xử lý văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước, cá nhân ở trung ương ban hành. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12 (436), kỳ tháng 6/2021.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn mới. https://danchuphapluat.vn/hoan-thien-he-thong-phap-luat-trong-giai-doan-moi.
5. Hoàn thiện pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn mới. https://danchuphapluat.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-trong-qua-trinh-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-giai-doan-moi.
6. Những hạn chế chủ yếu và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay. https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202202/nhung-han-che-chu-yeu-va-giai-phap-khac-phuc-nham-nang-cao-chat-luong-xay-dung-phap-luat-o-nuoc-ta-hien-nay-310649.
7. Quốc hội (2015). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.