Vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến” và “ứng vạn biến” trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

TS. Phạm Thị Lan
Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam để giải quyết khó khăn lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tư tưởng này không chỉ hiệu quả trong hoạt động ngoại giao mà còn là cẩm nang trong nhận thức và hành động của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ giữa “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, từ đó, vận dụng nguyên tắc này trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.  

Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; “dĩ bất biến”; “ứng vạn biến”; vận dụng; sáng tạo.

1. Đặt vấn đề  

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận kiệt xuất, tư tưởng và đạo đức cao cả của Người mãi mãi soi sáng chúng ta. Vì vậy, trong bài viết phân tích để làm rõ hơn phương pháp tư duy về cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phương pháp này vừa mang tính khoa học, nghệ thuật,cách mạng; đồng thời, cũng thể hiện sâu sắc đậm chất nhân văn và đa dạng, phong phú. Chính vì vậy, Người đã phân thành những phương pháp thuộc từng lĩnh vực, từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng; có những phương pháp chung được vận dụng cho toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Nét độc đáo nhất trong hệ thống phương pháp cách mạng khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và được coi là phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh.

2. Mối quan hệ giữa “ bất biến” và “ứng vạn biến”

Kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước. Câu nói: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên vào ngày 31/5/1946, Người đã trao đổi với cụ Huỳnh Thúc Kháng – Quyền Chủ tịch nước được Người tin cậy ủy thác và dặn dò: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho, mong cụ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”1. “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ có ý nghĩa giải quyết những khó khăn trong tình hình cụ thể lúc này mà từ đây nó trở thành triết lý hành động, phuơng pháp cách mạng trong suốt cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

“Bất biến” và “vạn biến” nếu theo cách hiểu của triết học, chúng ta có thể hiểu “bất biến” là quy luật, vì chỉ có quy luật mới tồn tại lâu dài, là hầu như bất biến. Dĩ nhiên cái bất biến này là tương đối nhưng tương đối trong tính tuyệt đối và tuyệt đối một cách tương đối. “Bất biến” được hiểu một cách biện chứng chứ không siêu hình. Còn “vạn biến” là hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể dựa vào quy luật mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy luật tương ứng.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp khéo léo, nhuần nhuyễn giữa phương pháp biện chứng Mác – Lênin với sự linh hoạt mềm dẻo của triết lý phương Đông, truyền thống văn hoá Việt Nam, cùng với những kinh nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói cụ thể dĩ bất biến, ứng vạn biến là gì? Nhưng từ hoạt động cách mạng luôn là câu trả lời đầy sức thuyết phục cho phương pháp của Người. Phương pháp này thể hiện được mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của Nhân dân – đây chính là điều bất biến; còn phương pháp, sách lược có thể tùy tình hình mà biến hóa đa dạng, thay đổi linh hoạt nhưng không được xa rời cái bất biến.

Thứ nhất, dĩ bất biến mà Người nói đến, trước hết là nền độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc, tự do hạnh phúc của Nhân dân.

Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do hạnh phúc của Nhân dân là mục đích duy nhất và cũng là ham muốn, ham muốn tột bậc của Người, là cái “bất biến”, cái vĩnh hằng mà cả cuộc đời Người và dân tộc Việt Nam phải phấn đấu để đạt được. Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chù tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, quyền độc lập đó”2.

Khi đế quốc Mỹ với một lực lượng hùng mạnh nhất, trang bị vũ khí hiện đại nhất hòng “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, Người đã tuyên bố: “Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà nội, Hải phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”3. Như vậy, bằng ý chí và sự quyết tâm của Người và cả dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và lực lượng để giành độc lập thống nhất Tổ quốc và đem lại tự do hạnh phúc cho Nhân dân Việt Nam. Độc lập cho Tổ quốc, tự do của đồng bào là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, và đó cũng chính là mục tiêu duy nhất của cả cuộc đời phấn đấu của Người: “Vì độc lập của Tổ quốc. toàn dân và quân ta đoàn kết một lòng; không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”4

Trong tư tưởng của Người luôn gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội: “Dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”5 Người nhận định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm them, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm”6.

Như vậy, điều bất biến trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, mặt khác, trong tư tưởng của Người khẳng định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một sự sáng tạo vô cùng, mở ra một thời đại vững mạnh trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, ứng vạn biến mà Người nói đến chính là tư duy biện chứng, phương pháp cách mạng như con đường, biện pháp, sách lược đòi hỏi phải có sự sáng tạo không ngừng.

Trong hoạt động cách mạng, cái bất biến là không bao giờ thay đổi, nhưng để đạt được nó thì cần phải “ứng vạn biến”, đó chính là tư duy biện chứng, phương pháp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người xác định: “Mục đích bất di bất dịch của ta là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”7. Người đã giải quyết một cách hoàn hảo giữa hai vấn đề tưởng chừng như rất khó để kết hợp. Đây cũng được coi là tư tưởng sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phương pháp này được thể hiện rõ nhất trong tư tưởng của Người ở các lĩnh vực hoạt động cách mạng, đặc biệt là trong quân sự và ngoại giao. Trong lĩnh vực ngoại giao, khẳng định nguyên tắc: “Chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hoà bình, nhung đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng và cảnh giác8. Nguời đã xác định thái độ khác nhau đối với những đối tuợng ngoại giao khác nhau. Với một ý muốn duy nhất là làm sao đem lại cho dân chúng được tự do độc lập hoàn toàn và để cho tất cả mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do độc lập. 

Phương pháp biện chứng còn được thể hiện trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập còn non trẻ nhưng vẫn sáng suốt xác định thái độ khác nhau đối với các quốc gia khác nhau, thể hiện cách nhìn toàn diện phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Do đó, “Chính sự kết hợp mà không ai bắt chước nổi giữa tính mềm déo với tính cương nghị, giữa tính linh hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thống yêu nước với sự phân tích mácxít đã tạo nên tính độc đáo của Hồ Chí Minh”9. Người hiểu rõ, con đường đi đến cái bất biến là con đường đầy gian khổ, có sự hy sinh của nhiều thế hệ. Trong mỗi giai đoạn cơ bản của cách mạng, chiến lược cách mạng không thay đổi, còn chỉ đạo chiến lược, vận dụng sách lược, hình thức biện pháp phải linh hoạt so với tình hình cụ thể. Trong đấu tranh cách mạng phải biết giành thắng lợi từng bước nhưng lại không thể chỉ biết có mục tiêu trước mắt mà quên mục tiêu lâu dài, không thể hy sinh mục tiêu lâu dài vì những cái trước mắt. Trong đấu tranh, có thể có lúc cần thỏa hiệp nhưng thỏa hiệp phải có nguyên tắc, đó chính là “ứng vạn biến”. Đây cũng chính là nguyên tắc sáng tạo không ngừng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã hình thành cách nhìn nhận tài tình và sáng suốt trong phương pháp Hồ Chí Minh. Với những thái độ khác nhau trong quan hệ ngoại giao ở thời điểm nhạy cảm như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ không vì mục đích nào khác là “đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế để đấu tranh chống bọn áp bức”, vì hòa bình, vì tự do và sự ấm no của mọi nguời”. Mục tiêu ấy đã được Hồ Chủ tịch nhiều lần tuyên bố rõ ràng, thể hiện sự quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam, khát vọng của Nhân dân Việt Nam tự ngàn đời: “Chính sách của Việt Nam rất rõ rệt: cốt làm cho nuớc Việt Nam thống nhất và độc lập, làm cho dân được tự do và khỏi khổ, khỏi dốt”10.  

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” cũng được chứng minh rất rõ trong tư tưởng của Người về quân sự, trong đó: Dù phải kháng chiến 5 năm, 10 năm, hay là lâu hơn nữa, để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để tranh lấy tự do và hạnh phúc cho giống nòi, chúng ta cũng quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng”11.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ thể hiện trong tư tưởng của Người về ngoại giao, quân sự mà còn được thể hiện cụ thể trong xây dựng đất nước. Ngay sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải huy động sức mạnh toàn dân với mọi biện pháp thực hiện, như: ra sức tăng gia sản xuất, muốn tăng gia sản xuất rộng rãi và chóng có kết quả thì cần có tư bản, trí thức, lao động… Trong phương pháp của Người vừa tiến hành xây dựng đất nước, vừa chăm lo đời sống cho Nhân dân có cái ăn cái mặc, cho dân học chữ với những lớp học xóa nạn mù chữ được mở ra. Phương pháp này đã giải quyết khó khăn tình hình lúc bấy giờ.

Khi đánh giá về sự linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phương pháp cách mạng, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Hồ Chí Minh là bậc thầy trong việc nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững thời và thế, từ đó mà phấn đấu giành thắng lợi từng bước từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, biết tiến, biết thoái, có lúc thoái một bứơc để tiến hai bước, luôn luôn nắm vững mục tiêu từng lúc, kiên trì phấn đấu, tập trung mọi lực lượng đạt đến mục tiêu đó”12.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ là phương pháp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà trong đó nội dung sâu sắc mang tính triết học về phép biện chứng. Nó biểu hiện mối quan hệ cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cái trừu tượng với cái cụ thể… Đồng thời, cũng biểu hiện sự vận dụng các nguyên tắc, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật, từ nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể đến phát triển. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là phép biện chứng Hồ Chí Minh, được Người vận dụng thành công trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, điều kiện thực tiễn.

Như vậy, độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu kiên định, “bất biến”, là ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là khát vọng chung của dân tộc Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó đã có rnhiều con đường khác nhau, cách đi khác nhau, biện pháp khác nhau và vận dụng khác nhau. Nhưng cái “vạn biến” đó không được nằm ngoài hay lệch quỹ đạo chung là độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

3. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”  và một số bài học được rút ra

Nghiên cứu tư tưởng và vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, có thể rút ra những bài học mang tính nguyên tắc sau để vận dụng vào thực tiễn đất nước. Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, quan hệ ngoại giao ngày càng đa dạng, phức tạp, đặt ra yêu cầu chúng ta phải luôn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cốt lõi của tư  tuởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng đó, cách mạng Việt Nam đã vững buớc tiến lên, giành được những thắng lợi lịch sử mang tầm vóc vĩ đại. 

Từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, chúng ta cần tập trung làm sáng tỏ để định hình rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là các vấn đề: đặc điểm mới của thời đại, những xu hướng chủ yếu của thế giới ngày nay; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển; đặc biệt, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân phải chú trọng thực hành dân chủ, nhất là dân chủ trong Đảng; mọi cơ chế và chính sách phải hợp lòng dân, lấy dân là gốc. Tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Cách mạng Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay vừa có những thuận lợi và phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đó là “mâu thuẫn giữa những lực lượng, những nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những lực lượng, những nhân tố kìm hãm sự phát triển của quá trình đó”13. Vấn đề ở đây là giải quyết làm sao đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chủ tịch trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước đã nhận thức kịp thời và chủ động đề ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn xã hội phức tạp, nhất là mâu thuẫn trong nội bộ N -ân dân, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị…, xây dựng đồng thuận xã hội.

Theo Người, “chế độ khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lợi riêng… làm khoán tốt, thích hợp và công bằng trong chế độ ta hiện nay”14. Người rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Người chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Người bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hiện nay, khi đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau thì bên cạnh sự thống nhất về mục tiêu chung, vẫn còn sự khác nhau về những mục tiêu cụ thể, đó là không trái với lợi ích chung của dân tộc. Phương pháp này của Người lấy cái tương đồng để khắc phục cái riêng, lấy nhân ái, khoan dung để cảm hoá, lấy nhân nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”.

Bài học về đoàn kết. “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”15. Đảng và Nhà nuớc ta kiên quyết đầu tranh chống lại những hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân lao động, những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là những thủ đoạn phá hoại bằng “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, vận dụng nguyên tắc sáng tạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” thì các biện pháp về thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc được đẩy mạnh, như: công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng; thực hiện và phát huy dân chủ; kết hợp hài hoà lợi ích của các bộ phận, tầng lớp nhân dân… Đó chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp, nghệ thuật trong đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng một xã hội đồng thuận, chủ trương đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Đảng dựa trên nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu huớng phát triển của thời đại ngày nay.

Bài học về giữ gìn lòng tin cán bộ, Đảng viên. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đời sống trong xã hội. Bao gồm sự tác động trực tiếp đến đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, vẫn còn hiện tượng đã và đang làm mất lòng tin của quần chúng nhưng sự cống hiến, phấn đấu vì một niềm tin vào chủ nghĩa xã hội của Đảng, của Nhân dân là một thực tế không thể phủ nhận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ phải có cách nhìn toàn diện trong việc nhận định sự việc: Cán bộ trong khi học tập, nghiên cứu như nghiên cứu về xã hội, con người và sự vật thì phải xem xét toàn diện”, tức là “xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu biết và suy đoán tương lai”. Người cũng xem xét cán bộ không chỉ xem ngoài mặt, mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ… Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”16.

Bài học về khoan dung thể hiện tôn trọng sự khác nhau về thiên hướng, nhân cách, niềm tin của những người trong một cộng đồng dân tộc; là chấp nhận sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng giữa các dân tộc khác nhau để cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình. Khoan dung chính là học cách nghe, cách hiểu người khác để chia sẻ, cảm thông, miễn là những khác nhau đó không có hại gì cho lợi ích riêng của cá nhân nói riêng và cái chung của cộng đồng. Để làm được điều này đòi hỏi phải được xây dựng trên các nguyên tắc: tự do, bình đẳng, tiến bộ,… chống lại thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều xảy ra trong xã hội hiện nay.

Người đặc biệt phê phán nhằm gạt bỏ những thái độ sai lầm, như: thỏa mãn với thành tích bướcđầu, bảo thủ, tự mãn vỡi những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần chúng, lười biếng, không tích cực học tập cái mới… Vì vậy, vận dụng nguyên tác sáng tạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Nhận thức được tinh thần đó, Đảng và Nhà nước luôn đổi mới trong mọi lĩnh vực, đưa ra các biện pháp phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đổi mới phải dựa trên cơ sở toàn diện, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và dựa vào những nguồn lực chủ yếu của đất nước, tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi.

4. Kết luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở những giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Mỗi tư tưởng, quan điểm, phương pháp của Người đều thấm đậm tính biện chứng, khoa học và sáng tạo; thể hiện trong “dĩ bất biến, ứng vạn biến” xem xét mọi lĩnh vực ở quan điểm toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phát triển… Việc vận dụng sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý, là kim chỉ nam về phương pháp cách mạng cho quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam, cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh (1993). Biên niên tiểu sửTập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 216.

2. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 496.

3, 4. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 108, 109.

5. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 128.

6. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 173.

7. Hồ Chí Minh toàn tập (2002). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 319.

8, 14. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 156, 341.

9. Song Thành (2009).  Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạcH. NXB Lý luận chính trị, tr. 336.  

10, 11, 16. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 155, 487, 276.

12. Phạm Văn Đồng (1998). Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 33.

13. Nguyễn Văn Vinh (2002). Để góp phần giải quyết có hiệu quả mâu thuân chủ yếu ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, số 131 (4/2002), tr. 11.

15. Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 18.

Tài liệu tham khảo:

1. Võ Nguyên Giáp (1997). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt NamH. NXBChính trị quốc gia.

2. Võ Nguyên Giáp (2005). Về tư tưởng Hồ Chí Minh. H. NXB Quân đội nhân dân.

3. Trần Thị Minh Tuyết (2014). Ý nghĩa trong tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Tạp chí Triết học, số 10 (281), 10/2014, tr. 21.

4. Vận dụng tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/19/van-dung-tu-tuong-di-bat-bien-ung-van-bien-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-bao-ve-to-quoc-hien-nay/