Đổi mới, bổ sung chính sách, pháp luật một số lĩnh vực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam 

TS. Trần Quốc Việt
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Với gần 40 năm đổi mới toàn diện, vị thế và tiềm lực đất nước ta không ngừng được nâng cao. Trong đó, đổi mới về đối ngoại, hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Việc kết hợp hài hòa giữa nội lực và ngoại lực đã góp phần đưa đất nước đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn, định hướng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước. Quá trình này đòi hỏi nhiều nhiệm vụ, công tác tổng hợp trên nhiều lĩnh vực. Bài viết tập trung làm rõ tiến trình đổi mới, bổ sung chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực quan trọng của kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn mới.

Từ khóa: Đổi mới; bổ sung; chính sách; pháp luật; hội nhập kinh tế quốc tế. 

1. Đặt vấn đề

Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng, việc kết hợp yếu tố bên ngoài với các nhân tố bên trong trở thành yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong chính sách của mỗi quốc gia. Việt Nam, sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trên lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế. Theo tài liệu, tính đến hết năm 2024, “Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt, tham gia sâu hơn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới”1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành, gắn kết với thị trường khu vực và toàn cầu; công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh; hạ tầng kinh tế – xã hội không ngừng được nâng cấp; nguồn nhân lực trẻ, năng động, có tay nghề cao. Từ năm 2016, “Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của ASEAN, WTO và các FTA đã ký với mức độ ngày càng sâu rộng. Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành biện pháp quan trọng để kết hợp yếu tố bên ngoài với các nhân tố bên trong để tạo thành sức mạnh tổng hợp quốc gia”2. Điều này đặt ra yêu cầu Đảng và Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật phù hợp nhằm tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao hiệu quả hội nhập.

2. Chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế

Là quốc gia đang phát triển, với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc,đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, Đảng và Nhà nước chủ động và tích cực tham giatoàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế để bổ sung, nâng cao nội lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế và từng bước hội nhập trên tất cả các lĩnh vực như một hình thức, phiên bản mới trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vì mục tiêu bảo vệ và phát triển đất nước, được Đảng đúc kết thành kinh nghiệm qua các kỳ Đại hội. 

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), lần đầu tiên xuất hiện, cụm từ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức, tư duy đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng. Từ đó, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được Đảng bổ sung, phát triển qua từng kỳ Đại hội và các hội nghị trung ương. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01/2011), đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế khi khẳng định: “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh…”3.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ quan điểm phát triển của Việt Nam là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” 4. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (01/2016), trên cơ sở khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”5, đã chủ trương “đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế” và “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”6.

Để thực hiện các các mục tiêu phát triển đất nước đặt ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (01/2021) đã nêu rõ trong định hướng phát triển đất nước: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”7. Trong định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “…Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”8.

3. Quá trình đổi mới, bổ sung chính sách, pháp luật trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật là điều kiện tiên quyết để Việt Nam thích ứng, phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc tế. Nhận thức sâu sắc điều này, Đảng và Nhà nước đã từng bước hoạch định và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, định hướng quan trọng, được cụ thể hóa thành các văn kiện pháp luật, tạo nền tảng pháp lý cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

3.1. Về bổ sung thẩm quyền phê chuẩn, ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011), Quốc hội khoá XIII, tại kỳ họp thứ nhất đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Đồng thời, thành lập Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), ngày 28/11/2013, tại kỳ hợp thứ sáu Quốc hội (khóa XIII), đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Nhiều điểm mới liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế được Hiến pháp quy định, gồm: (1) Khẳng định quan điểm xây dựng “nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…”9; (2) Các quy định cụ thể về thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế cũng được bổ sung đầy đủ: Quốc hội “có quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế…”10; Chủ tịch nước “có quyền quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế…”11 ; Chính phủ “tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền…”12.

Để cụ thể hóa các quy định trên, Quốc hội đã ban hành Luật Điều ước quốc tế năm 2016 (Luật số 108/2016/QH13) thay thế Luật Điều ước quốc tế năm 2005, quy định chi tiết thẩm quyền, quy trình ký kết, trách nhiệm thực hiện và giải thích điều ước13. Tiếp đó, Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020 (Luật số 70/2020/QH14) mở rộng phạm vi ký kết thỏa thuận quốc tế, nhất là với các địa phương biên giới; đồng thời, quy định quy trình rút gọn để xử lý các tình huống khẩn cấp về chính trị, thiên tai, dịch bệnh, phù hợp thực tiễn hội nhập14.

Với những điểm mới đáp ứng thực tiễn nhu cầu ký kết các văn bản hợp tác của các cấp, từ trung ương đến cơ sở, như: mở rộng hơn việc ký kết thoả thuận quốc tế với các chủ thể là UBND ở tỉnh, thành phố, chính quyền cơ sở, khu vực biên giới, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp. Đồng thời, cũng bổ sung quy định mới về trình tự, thủ tục rút gọn với các tiêu chí cụ thể để áp dụng trong trường hợp cần xử lý gấp do yêu cầu về chính trị, đối ngoại, cứu trợ khẩn cấp, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh; bổ sung một số điều khoản về thủ tục ký kết thoả thuận quốc tế liên quan đế quốc phòng, an ninh và đầu tư. 

3.2. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp

Việt Nam đã chủ động cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, một nội dung gắn liền với quá trình thực hiện các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Sau khi chính thức gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật mới, chỉnh sửa các bộ luật quan trọng, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ… Từ Hiến pháp năm 2013, các luật mới, như: Luật Đầu tư năm 2020, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư năm 2020… đã góp phần hiện đại hóa thể chế, minh bạch hóa môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng.

Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 về tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia15; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, đặt ra các chỉ tiêu cụ thể nhằm đưa doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu16. Theo Báo cáo Doing Business, Việt Nam đã cải thiện thứ hạng môi trường kinh doanh từ 82/190 (năm 2016) lên 68/190 (năm 2017), Báo ghi nhận Việt Nam đạt 66,81 điểm, thuộc nhóm 50 quốc gia có chỉ số sẵn sàng kinh doanh cao nhất17, phản ánh nỗ lực cải cách khung pháp lý, hiệu quả dịch vụ công và khả năng thực thi.

Nhìn chung, thực hiện chủ trương của Đảng, nhiều chương trình, kế hoạch, các luật và văn bản quy phạm pháp luật cơ bản đã được ban hành kịp thời, tạo hành lang pháp lý tháo gỡ khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, để bảo đảm tính kịp thời, nhiều điều khoản trong FTA đã được Việt Nam áp dụng trực tiếp hoặc ban hành một luật để sửa nhiều luật có liên quan. Việc chủ động, tích cực đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật đã từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, tham gia chuỗi cung ứng của thế giới, đồng thời, nâng cao hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển của đất nước.

3.3. Về ban hành biện pháp phòng vệ, tự vệ thương mại

Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới thể hiện ở việc tham gia nhiều tổ chức quốc tế, ký kết nhiều FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới. Đây là cơ hội lớn cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, từ khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam phải thực thi nhiều quy định, cam kết của WTO, trong đó có quy định của WTO về việc cho phép sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đây là các những biện pháp nhằm bảo hộ nền sản xuất nội địa trước sự ngày càng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu. Phòng vệ Thương mại gồm các biện pháp là: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Từ bối cảnh thực tiễn này, Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giản thiệu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế.

Việt Nam chú trọng hoàn thiện hệ thống biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Từ Pháp lệnh Tự vệ năm 2002, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và các nghị định, thông tư hướng dẫn. Đặc biệt, Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ, bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam18. Nhờ hệ thống pháp luật được kiện toàn, Bộ Công Thương đã tiến hành 23 vụ điều tra phòng vệ thương mại, mang lại hiệu quả thực tế, bảo vệ gần 150.000 việc làm cho người lao động trong nước. Tuy vậy, thách thức vẫn rất lớn khi số lượng vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ các đối tác tăng mạnh. Tính đến năm 2024, Việt Nam đã đối mặt với 27 vụ điều tra phòng vệ thương mại, trong đó Mỹ chiếm gần 50%, cho thấy xu hướng bảo hộ thương mại toàn cầu gia tăng19.

Thực hiện những biện pháp phòng vệ thương mại, đến cuối năm 2020, Bộ Công Thương đã tiến hành “điều tra 23 vụ, việc phòng vệ thương mại (bao gồm 15 vụ, việc chống bán phá giá; 1 vụ, việc chống trợ cấp; 6 vụ, việc tự vệ và 1 vụ, việc chống lẩn tránh biện pháp tự vệ với các sản phẩm thép, kính nổi, dầu ăn, bột ngọt, phân bón, màng BOPP, nhôm, ván gỗ, sợi, đường…), mang lại hiệu quả thiết thực đối với doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ việc làm của gần 150.000 lao động trong các lĩnh vực liên quan”20.

Như vậy, có thể khẳng định: việc chủ động, tích cực đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật đã từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới… Những nỗ lực đó không chỉ giúp Việt Nam tận dụng cơ hội, mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu mà còn nâng cao năng lực ứng phó với các rủi ro, tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp.

4. Giải pháp hoàn thiện chủ trương, chính sách pháp luật đáp ứng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt chủ trương của Đảng, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động về hội nhập kinh tế quốc tế. 

Cần quán triệt tinh thần hội nhập kinh tế được xác định là trung tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế với ưu tiên hàng đầu là cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. Xây dựng trương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, quán triệt thường xuyên và sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế nói riêng (Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới) trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân; đặc biệt là trong cộng đồng doanh nghiệp để đạt được sự thống nhất trong tư duy, nhất thức và hành động. Về nội dung, phương pháp tuyên truyền hội nhập kinh tế quốc tế, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển dữ liệu số, công nghệ thông tin để sự lan toả nhanh chóng, tin cậy, chính xác và đạt hiệu quả cao cả về chất lượng và số lượng. Đồng thời, triển khai và quan triệt Nghị quyết số 35/NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đối với các nội dung liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế. 

Thứ hai, đẩy mạnh, cải cách, cải thiện chính sách, pháp luật về môi trường đầu tư, kinh doanh, thủ tục hành chính, nội luật hoá các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.  

Việc tận dụng hiệu quả các cam kết, thỏa thuận, liên kết kinh tế quốc tế, nhất là các FTA thế hệ mới biến thành ngoại lực thúc đẩy nội lực trong nước phát triển là mục tiêu cũng là nội dung trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để tăng cường đan xen lợi ích, độc lập tự chủ, không để phụ thuộc vào một số ít đối tác trước những thách thức từ tác động tình hình kinh tế – chính trị thế giới, sự thay đổi chiến lược của các nước lớn, chiến tranh thương mại,… cần có những quyết sách, một hệ thống chính sách, pháp luật hiện đại, phù hợp. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế trong nước nhằm nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thoả thuận quốc tế… Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI chất lượng cao, nhất là trong các lĩnh vực mới nổi, quan trọng, động lực mới cho tăng năng suất lao động, như: công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo(AI).

Thứ ba, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đầu tư nước ngoài với các tập đoàn toàn cầu. 

Đẩy mạnh chính sách phù hợp để thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ, quản trị, kỹ năng chuyên môn cho doanh nghiệp và lao động Việt Nam. Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh có hiệu quả ở nước ngoài, xây dựng các thương hiệu quốc gia mang tầm quốc tế. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI chất lượng cao, nhất là trong các lĩnh vực mới nổi, quan trọng, động lực mới cho tăng năng suất lao động, như công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, AI… Đồng thời, kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động hình thành phương án, biện pháp an ninh chống việc lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia. 

Thứ tư, quan tâm, hỗ trợ, phát triển cộng đồng doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh công tác giáo dục – đào tạo trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Thực tiễn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công đồng doanh nghiệp, doanh nhân luôn là đội ngũ được Đảng, Nhà nước xác định là nhân tố quan trọng trong tiến trình hội nhập. Trước tình hình phát triển mới của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, cần tích cực ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đăng ký bảo hộ thương hiệu quốc tế, nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc tăng lường liên kết khu vực đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy phát triển văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. 

Để tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng, thu được những kết quả nhanh, bền vững rất cần chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, thu hút các nhân lực, chuyên gia từ các ngành, lĩnh vực có vai trò quan trọng như công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, AI… cần nhanh chóng có chiến lược phát triển giáo dục đào tạo, đổi mới chương trình đào tạo một cách căn bản và thực chất đáp ứng tiến trình hội nhập sâu rộng trong điều kiện phát triển mới. 

Thứ năm, tăng cường rà soát, nâng cao hiệu quả thực hiện các khuôn khổ cam kết, thỏa thuận hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam; đồng thời, chú trọng công tác dự báo trong tiến hình hội nhập kinh tế quốc tế. 

Việt Nam đã và đang tham gia nhiều khuôn khổ, tổ chức kinh tế quốc tế. Từ khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam không ngừng nỗ lực nội luật hóa, đáp ứng phù hợp với những yêu cầu, tiêu chuẩn của các tổ chức, các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia phù hợp với Hiến pháp và chế độ chính trị. Tuy nhiên, tác động nhiều chiều cả phương diện tích cực và tiêu cực từ bên ngoài cũng đặt ra yêu cầu cần ra soát, nâng cao hiệu quả thực hiện khuôn khổ cam kết, sự hiệu quả khi tham gia các định chế kinh tế – thương mại, các hiệp định kinh tế quốc tế mà Việt Nam đang tham gia. Trước những biến đổi mau lẹ, tác động trên cả hai bình diện tích cực và tiêu cực từ kinh tế – chính trị thế giới, biến những thách thức thành thời cơ, phát huy các kết quả đạt được thì cần có những nghiên cứu dự báo mang tầm chiến lược, sách lược để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước những quyết sách đúng đắn, phù hợp đáp ứng thực tiễn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Kết luận

Trong bối cảnh hoà bình, hợp tác cùng phát triển và toàn cầu hoá là xu thế phát triển của thời đại, trước tiên là độc lập, tự chủ về kinh tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế, tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tếcó hiệu quả. Quá trình hoạch đổi mới một số chính sách, pháp luật về hội nhập kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn cho thấy những bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam song song với việc chủ động, tích cực đổi mới bên trong. Đất nước đang đứng trước cơ hội lớn để vươn mình, nhưng thách thức khó khăn cũng không nhỏ. Những thành quả của hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung đang ngày càng góp phần tích lũy thế và lực cho sự bứt phá tiếp theo. Trên cơ sở đó, đặt ra trong thời gian tới, cần sự đổi mới, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hội nhập kinh tế quốc tế một cách quyết liệt, nhanh chóng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước. 

Chú thích:

1. Vươn mình trong hội nhập quốc tế. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story//asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/vuon-minh-trong-hoi-nhap-quoc-te

3, 4, 5, 6.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới Phần II (X, XI, XII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 505, 505, 689, 661.

7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 110, 135.

9, 10, 11, 12. Quốc hội (2013). Điều 50, khoản 14 Điều 70, khoản 6 Điều 88, khoản 7 Điều 96Hiến pháp nước năm 2013.

13. Quốc hội (2016). Luật Điều ước quốc tế năm 2016.

14. Quốc hội (2020). Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020. 

15. Chính phủ (2016). Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

16. Chính phủ (2018). Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo.

17. World Bank (2024). Báo cáo Doing Business, B-Ready đánh giá mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh ở các nền kinh tế năm 2024.

18. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ”.

19. Bộ Công Thương (2020). Thông tư số 30/2020/TT-BCT ngày 26/11/2020 hướng dẫn thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu về phòng vệ thương mại.

20. Tăng cường phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước trước yêu cầu hội nhập quốc tế. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/824485/tang-cuong-phong-ve-thuong-mai-de-bao-ve-san-xuat-va-thi-truong-trong-nuoc-truoc-yeu-cau-hoi-nhap-quoc-te.aspx