Phát triển truyền thông chính sách gắn với đổi mới sáng tạo công tác tuyên truyền trong bối cảnh truyền thông mới

PGS.TS. Doãn Thị Chín
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Ngày nay, truyền thông chính sách đã trở nên phổ biến được vận dụng ở nhiều quốc gia; ở Việt Nam tuy mới chỉ là những bước đầu nhưng cũng đang có sự phát triển mạnh mẽ. Để truyền thông chính sách đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong bối cảnh truyền thông mới và phù hợp với Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới hiện nay, cần đặt truyền thông chính sách trong công tác tuyên truyền với nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, cần nhận thức rằng, phát triển truyền thông chính sách là sự đổi mới sáng tạo của công tác tuyên truyền ở nước ta. Để gắn truyền thông chính sách trong công tác tuyên truyền, cần nhận diện các điểm chung căn bản, cốt lõi; những đặc điểm, yếu tố tương đồng; các giải pháp, bài học, hàm ý có thể học hỏi, phát huy.

Từ khóa: Truyền thông chính sách, công tác tuyên truyền, bối cảnh truyền thông mới, đổi mới sáng tạo.

1. Đặt vấn đề

Truyền thông chính sách, hiểu theo quan niệm chung phổ biến hiện nay là quá trình truyền đạt, truyền tải các chính sách công, các quyết định chính trị tới cộng đồng. Truyền thông chính sách là quá trình các tổ chức, giai tầng, hệ thống chính trị, nhà nước… thực hiện việc lan tỏa, có thể bằng cách thuyết phục hoặc bắt buộc hay kết hợp cả hai, các thông tin về quan điểm, tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển của mình. Dù mô hình nhà nước nào, đảng phái với thế giới quan, phương pháp luận nào thì cũng gắn với truyền thông chính sách; điều này cũng không ngoại lệ với các đảng cộng sản với nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và thực tế cũng đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa mác-xít sớm luận giải, phát triển.

Dù xuất phát từ nghiên cứu của các nhà khoa học truyền thông phương Tây, truyền thông chính sách không phải là sản phẩm riêng của các nước phát triển. Thực tế, nhiều nội dung căn bản, cốt lõi, kể cả những ý tưởng chính của truyền thông chính sách vốn đã được nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu, luận giải.

Những năm qua, truyền thông chính sách được phản ánh nhiều ở Việt Nam, được chính thức hiện thực hóa trong một số văn bản của Chính phủ nhưng vì nhiều lý do khác nhau, vẫn chưa phát triển đúng với nội dung, bản chất, ý nghĩa của nó. Để truyền thông chính sách thực sự phát huy vai trò ở Việt Nam, điều quan trọng nhất là nó phải được đặt trong một công tác, nhiệm vụ nhất định của hệ thống chính trị – mà đó chính là công tác tuyên truyền.

Mặt khác, vận dụng truyền thông chính sách vào công tác tuyên truyền hiện nay chính là sự phát triển sáng tạo trên các quan điểm, nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền. Từ các cơ sở lý luận, thực tiễn cần sớm luận giải về việc vận dụng truyền thông chính sách nhằm phát triển sáng tạo công tác tuyên truyền ở nước ta trong kỷ nguyên mới dựa trên những hạt nhân hợp lý nào, tiếp thu và vận dụng những gì, mặt khác lại có những ưu điểm, thế mạnh, ưu việt nào mà các nước khác có thể học tập, tham khảo.

2. Truyền thông chính sách – sơ lược khái niệm và lịch sử phát triển

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều vấn đề mới trong công tác tư tưởng của nhân loại được đặt ra bởi các yêu cầu khách quan của lịch sử, xuất phát từ nhu cầu nhân loại sau những tổn thương dữ dội. Trong đó các nhu cầu mãnh liệt nhất đó là khôi phục, phát triển thế giới với một trật tự mới ngăn ngừa đói nghèo, chiến tranh, mối đe dọa hủy diệt và chữa lành tư tưởng, để tư tưởng con người, giữa người dân và các chế độ trở nên gần gũi, chia sẻ, trách nhiệm… Trong bối cảnh đó, các vấn đề mới về truyền thông đã được nghiên cứu, phát triển với xu hướng đẩy mạnh sự xuất hiện có ý nghĩa quyết định của người dân – đối tượng truyền thông. Các yêu cầu về xây dựng các cơ chế bảo đảm tương tác hai chiều, minh bạch thông tin, vai trò giám sát, phản biện của truyền thông, vai trò quyết định của nhân dân với chính sách… được đặt ra rất mạnh mẽ. Truyền thông chính sách, với tư cách là một thuật ngữ khoa học chính trị, chính sách công hiện đại hình thành và phát triển trong bối cảnh đó.

Giai đoạn 1950 – 1970 là sự hình thành, phát triển của truyền thông hiện đại nói chung, truyền thông chính sách nói riêng. Các học giả như Harold Lasswell, Wilbur Schramm, Theodore Peterson, Fred S. Siebert, Max Horkheimer, Paul Lazarsfeld… là những người xây dựng các lý thuyết nền tảng về truyền thông đại chúng trong bối cảnh thế giới mới. Họ đã luận giải sứ mệnh của truyền thông đại chúng không chỉ là phương tiện mà thực chất cần coi đó là chủ thể tham gia phát triển xã hội, nhất là với vai trò định hướng dư luận, kiểm soát hành vi xã hội, hỗ trợ hoạch định chính sách công…

H. Lasswell với mô hình truyền thông 5W (Who says What in Which channel to Whom with What effect?) được xem là mô hình kinh điển của truyền thông hiện đại, đồng thời đặt nền móng cho nghiên cứu ảnh hưởng của truyền thông với chính sách công: truyền thông thực sự là công cụ điều hành xã hội cũng như tác nhân tạo sự thay đổi chính trị1.

Ngoài ra, còn có Paul Lazarsfeld với lý thuyết “dòng chảy hai bước” (Two-step Flow of Communication) luận giải mối quan hệ giữa chính trị – truyền thông – công chúng; trong đó, những nhà chính trị không chỉ là tầng lớp đầu tiên đưa ra các quyết sách, mà còn bao gồm những người có ảnh hưởng chính trị – đóng vai trò truyền đạt thông điệp tới công chúng theo cách của mình, đặt cơ sở lý luận đầu tiên về nhóm đối tượng là những người lãnh đạo tư tưởng, người được công chúng tự chọn để nghe và làm theo2

Từ sau 1970 – 2000, các nghiên cứu truyền thông chính sách phát triển mạnh mẽ, chuyển từ các mô hình, lý thuyết mang tính hàn lâm, bước vào thực tiễn với những khái niệm, quan điểm, lý thuyết phát triển của nhiều tổ chức, quốc gia, tổ chức quốc tế; đồng thời, luận giải và khẳng định rất rõ vai trò của truyền thông trong quá trình truyền thông chính sách – nhấn mạnh vai trò chủ thể của truyền thông. Học giả nổi tiếng McLuhan đưa ra nhận định được xem như nền tảng cho sự thay đổi quan điểm về truyền thông – “medium is the message”, được hiểu nghĩa là truyền thông hiện đại không phải chỉ là phương tiện truyền tải thông điệp mà chính các phương tiện truyền thông tồn tại đã mang tính chất các thông điệp, nội dung nhằm tác động quyết định cấu trúc và hành vi xã hội3.

Một số công trình tiêu biểu như Public Policy Making của J. Anderson, An Introduction to the Policy Process của T.A. Birkland, Public Policy-making: process and principles của L. N. Gerston đã đi sâu phân tích vai trò của truyền thông từ xây dựng lộ trình, thực thi, đến đánh giá, phản hồi chính sách.

Đến nay, cơ bản đã hình thành quan niệm chung nhất đối với thuật ngữ Political Communication – truyền thông chính trị/truyền thông chính sách: đó là quá trình các nhà lãnh đạo/tổ chức chính trị, chính quyền; cơ quan, tổ chức truyền thông; người dân tương tác, trao đổi và bàn bạc về nội dung hoặc những đề xuất hình thành các chính sách công4. Các hình thức truyền thông được thực hiện bởi những người làm chính trị hoặc những tổ chức, cá nhân có yếu tố chính trị nhằm đạt được mục đích cụ thể cũng được xem là truyền thông chính sách5. Truyền thông chính sách mang những đặc điểm là một quá trình được thực hiện có chủ đích bởi con người. Có ba chủ thể chính: (1) Lãnh đạo, có thể bao gồm nhiều cấp: nhà nước, bang, thành phố, địa phương; lãnh đạo thực quyền, lãnh đạo danh dự… (2) Các phương tiện truyền thông: báo chí cấp địa phương, trung ương; từ các quy mô danh tiếng; báo in, phát thanh, đài truyền hình; truyền thông xã hội,… (3) Người dân phân cấp theo mức độ quan tâm các vấn đề chính trị, trình độ nhận thức, học vấn, khả năng tiếp cận nguồn thông tin6

Ngày nay, truyền thông chính sách đã phổ biến trên thế giới và được xem là một trong những nội dung gắn với quản trị quốc gia hiện đại; nhằm góp phần thực hiện chu trình hoạch định, thực thi, đánh giá và điều chỉnh chính sách công phù hợp, hiệu quả. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Truyền thông Chính phủ cung cấp các chính sách và dịch vụ góp phần vào các mục tiêu Chính phủ mở, quản trị tốt hơn và cuối cùng là tăng cường dân chủ. Nếu đánh giá đúng về tiềm năng chiến lược truyền thông về chính sách và có sự đầu tư kịp thời và hợp lý, các Chính phủ có thể xây dựng và củng cố niềm tin của công dân đối với chính quyền”7. Tuy nhiên, có sự khác nhau trong mô hình tổ chức thực tiễn, xuất phát từ các cách thức tiếp cận khác nhau đối với vai trò quản trị nhà nước, người lãnh đạo, quan điểm về truyền thông, mục đích truyền thông,… phản ánh sự đa dạng trong truyền thông chính sách và không thể có một hình mẫu chung nào. Ngay trong lòng các nước phát triển có cùng nền tảng phát triển như Mỹ, Anh với các nước Tây Âu khác, với trường hợp Australia… vẫn đều có sự khác biệt.

3. Công tác tuyên truyền chính sách của Đảng

Chủ nghĩa Mác – Lênin gồm ba bộ phận chủ đạo: triết học Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ sở lý luận – thực tiễn để nhân loại luận giải rất nhiều vấn đề, lĩnh vực, bao gồm công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền. Các quan điểm về sự vận động, thay đổi và phát triển của xã hội là một quá trình liên tục gắn với các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; quá trình và mối liên hệ giữa tư duy, nhận thức, hành động; vai trò của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, truyền thông đại chúng… đã hàm chứa nhiều luận giải, ý tưởng, định hướng đối với truyền thông chính sách.

Luận điểm nổi tiếng của Mác – Ăngghen: “Lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”8 đã chỉ rõ vai trò to lớn của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền. V. I. Lênin, trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước vô sản, khẳng định: đảng phải “thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”9. Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn khẳng định: công tác tuyên truyền phải được tiến hành với nội dung, phương thức phù hợp, trên cơ sở đồng thuận, để đạt được sự “thuyết phục” mà mục tiêu là “bản thân quần chúng phải tự mình tham gia… tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành”10. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: “Tuyên truyền là việc đem một việc gì nói cho dân biết, dân nhớ, dân tin, dân làm”11.

Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nêu rõ quan điểm về vị trí, vai trò của truyền thông, không chỉ là công cụ cách mạng mà còn là thiết chế, chủ thể trong hệ thống cách mạng. Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng (thời điểm đó là báo in và xuất bản) và Nhân dân: “Báo chí cách mạng dân chủ tự mình thấy và thừa nhận mình là chiến sĩ xã hội… quyết tâm bảo vệ nền tự do của ý chí nhân dân”12; “xuất bản là chiếc đòn bẩy mạnh mẽ của văn hóa và của việc giáo dục tinh thần cho Nhân dân”13; báo chí “không những là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể nữa14… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”15.

Cuộc đời, sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh… đều gắn với báo chí và các phương tiện truyền thông khác để thực hiện công tác tư tưởng, trực tiếp viết hoặc với tư cách chủ biên, chủ bút, sáng lập và rèn luyện báo chí cách mạng, xuất bản cách mạng. Đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, vì một nền báo chí phục vụ giai cấp và nhân dân luôn là khát khao, mục tiêu và là những nhiệm vụ họ làm ngay mỗi khi có điều kiện. Tất cả những điều đó cho thấy, tuyên truyền chính sách và các thành tố cấu thành nó, đã sớm được luận giải, chỉ dẫn, định hướng phát triển trong tư tưởng và hành động của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin. Có những chỉ dẫn vượt thời đại mà nhiều năm sau được các nhà nghiên cứu truyền thông chính sách luận giải kỹ lưỡng hơn, cụ thể hóa hơn.

Từ nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể thấy các chỉ dấu khẳng định rằng, các đảng cộng sản, nhà nước vô sản và hệ thống chính trị đều cần thực hiện thật tốt công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, bao gồm: tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách tới các tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị và Nhân dân, khi và chỉ khi Nhân dân nhận thức đúng đắn và chuyển hóa thành hành động cách mạng thì mới có thể coi là hoàn thành nhiệm vụ cách mạng; hiệu quả công tác tuyên truyền được đo lường bằng nhận thức, niềm tin và hành động.

Trong công tác tuyên truyền, người dân là đối tượng tuyên truyền nhưng là người quyết định nội dung, phương thức tuyên truyền (bởi thế tuyên truyền phải phù hợp đối tượng, thời điểm, phương thức…). Trong mối quan hệ của công tác tuyên truyền, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là báo chí có vai trò độc lập tương đối, ở cả vị trí tổ chức tập thể và lắng nghe, ghi nhận thực tiễn để phản ánh lại với lãnh đạo…

Như vậy, trong nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những ý tưởng rất rõ về truyền thông chính sách. Tuy nhiên, đó có thể mới là những gợi mở, định hướng bởi bản thân các nhà kinh điển chủ nghĩa mác-xít không dành riêng nghiên cứu trên từng lĩnh vực mà chỉ tạo nền tảng, thế giới quan, phương pháp luận. Khai thác những quan điểm tương đồng giúp chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng lý thuyết truyền thông chính sách hiện nay để phát triển sáng tạo công tác tuyên truyền, cụ thể trên các khía cạnh: sự minh bạch, tính tương tác, vai trò các chủ thể, hiện đại hóa phương thức tuyên truyền…

4. Phát triển truyền thông chính sách trong bối cảnh mới ở Việt Nam

Dựa trên quan điểm về bản chất hoạt động truyền thông chính sách là một lĩnh vực của công tác tuyên truyền, có thể vận dụng truyền thông chính sách hiện đại vào công tác tuyên truyền, là một cách thức đổi mới sáng tạo công tác tuyên truyền, có thể tạo ra một hình mẫu truyền thông chính sách ưu việt của Việt Nam.

Một là, cần khẳng định đưa truyền thông chính sách vào công tác tuyên truyền là một sự đổi mới sáng tạo về phương thức tuyên truyền; không phải là sự thay đổi nền tảng tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của công tác tuyên truyền. Trên thực tế, các yếu tố, đặc điểm của truyền thông chính sách hầu hết đều không trái chiều với công tác tuyên truyền mà nếu được tiếp thu hiệu quả còn đem lại sự phát triển sáng tạo – theo đúng tinh thần mà các nhà kinh điển chủ nghĩa mác-xít luôn đề cao sự phát triển phù hợp với bối cảnh, tính chất mỗi giai đoạn, thời kỳ.

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những quan điểm, ý tưởng lớn về công tác tuyên truyền mà trong đó hàm chứa các nội dung mà sau này các học giả truyền thông chính sách đề cập, như chủ trương, chính sách đều phải vì Nhân dân, xuất phát từ Nhân dân, trở lại Nhân dân, để Nhân dân quyết định, nhận thức, thực hiện, đặt ra yêu cầu mới; có nhiều phương thức tuyên truyền khác nhau, trong đó các phương tiện truyền thông và tầng lớp trung kiên – trung gian đóng vai trò vô cùng quan trọng; thông điệp truyền thông phải phù hợp nhu cầu, nhận thức của Nhân dân và được truyền tải bằng phương pháp, thời gian, địa điểm thích hợp…

Dù có thể có cách thức tổ chức, truyền thông khác nhau nhưng truyền thông chính sách cũng nhằm những mục tiêu như công tác tuyên truyền là để chủ trương, chính sách được hiện thực hóa ở mức cao nhất. Hiệu quả truyền thông chính sách hay công tác tuyên truyền đều được đo lường bởi niềm tin, nhận thức, thái độ và hành động của Nhân dân. Trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu chọn lọc các lý thuyết truyền thông chính sách để vận dụng vào công tác tuyên truyền, xây dựng mô hình truyền thông chính sách riêng của Việt Nam. Đồng thời, cũng cần khẳng định rằng, khi và chỉ khi truyền thông chính sách trở thành một bộ phận của công tác tuyên truyền thì nó mới phát triển đầy đủ, đúng nghĩa, không bị bó hẹp theo cách hiểu là hoạt động báo chí nhằm truyền thông chính sách công như hiện nay.

Hai là, phát triển vai trò ba chủ thể truyền thông chính sách phù hợp công tác tuyên truyền. Trên thực tế, đặc điểm thể chế ở Việt Nam có vẻ không tạo ra được cơ chế độc lập giữa ba chủ thể: nhà lãnh đạo/chính phủ – truyền thông đại chúng – Nhân dân; vẫn luôn tồn tại quan niệm truyền thông chỉ là công cụ của Nhà nước và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, cần nhận thức sâu sắc rằng, ở Việt Nam, các chủ thể của truyền thông chính sách có sự liên hệ mật thiết khi chế độ ở Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – đại diện trung thành và cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Về nguyên tắc, các chủ thể tham gia truyền thông chính sách vốn có chung một mục đích là phục vụ phát triển chung của cách mạng vì Nhân dân; các cơ quan, tổ chức, cá nhân lãnh đạo, cơ quan, đơn vị truyền thông đều mang trong mình sứ mệnh riêng để thực hiện mục tiêu cách mạng chung. Trên cơ sở đó vừa có thể thúc đẩy đến mức cao nhất có thể sự độc lập giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân lại vừa có thể tổ chức một hệ thống truyền thông chính sách hiệu quả mà hiếm quốc gia nào khác thực hiện được.

Công tác tuyên truyền của Việt Nam trong đại dịch Covid-19 chính là minh chứng về đỉnh cao của truyền thông chính sách khi đạt được sự đồng thuận tối đa giữa Nhà nước, truyền thông đại chúng, Nhân dân. Các cơ quan truyền thông cần tích cực thể hiện vai trò, sứ mệnh chính trị của mình – tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức tập thể, gần dân, sát dân, thay mặt Nhân dân phản biện, giám sát chính sách. Người dân cần phát huy tối đa quyền làm chủ của mình. Nhà lãnh đạo, Nhà nước cần thể hiện đầy đủ phẩm chất, sự ưu việt, những tiêu chí, yêu cầu đã được chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ. Trên cơ sở đó, vai trò và mối liên hệ giữa ba chủ thể truyền thông chính sách được thể hiện rõ trong công tác tuyên truyền.  

Ba là, phát triển sáng tạo các yếu tố, đặc điểm của truyền thông chính sách phù hợp với công tác tuyên truyền của đất nước. Trong một thời gian dài, công tác tuyên truyền ở Việt Nam phục vụ các cuộc cách mạng, gắn chặt với các cuộc kháng chiến, kiến quốc, chống bao vây cấm vận, khiến cho mô hình công tác tuyên truyền được thiết kế theo hệ thống từ trên xuống, tập trung thực hiện các chỉ đạo, mệnh lệnh từ trung ương. Trong khi đó, truyền thông chính sách đề cao tính tương tác giữa các chủ thể; cùng với đó là yêu cầu cao về sự minh bạch thông tin. Các chủ thể đóng vai trò tương đương nhau, tạo ra truyền thông đồng đẳng.

Mặt khác, do truyền thông chính sách đề cao vai trò nhân dân nói chung và từng nhóm cộng đồng, tầng lớp nói riêng nên mọi thiết kế thông điệp, hình thức, phương tiện, bối cảnh, thời gian, chủ thể truyền tải… đều được xây dựng phù hợp với từng nhóm đối tượng. Truyền thông chính sách bao giờ cũng được xây dựng thành các chiến lược, chương trình, kế hoạch truyền thông tỉ mỉ, khoa học, lường trước mọi khả năng, tình huống… Đây chính là những nội dung mà công tác tuyên truyền hiện nay cần tiếp thu, học hỏi để phát triển sáng tạo trong điều kiện đất nước đang hòa bình, ổn định, tập trung xây dựng, phát triển đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Truyền thông chính sách nên vận dụng vào mọi lĩnh vực của công tác tuyên truyền trong tất cả các lĩnh vực mà Đảng cầm quyền lãnh đạo, tổ chức, định hướng hoạt động.

Bốn là, thế giới và Việt Nam đang bước vào thời đại mới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kỷ nguyên số đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và tác động mạnh mẽ để truyền thông chính sách. Khi nhân loại đang bước vào kỷ nguyên số, quá trình chuyển đổi số tác động mạnh mẽ vào cả mô hình quản trị quốc gia, các phương tiện truyền thông, nhận thức và nhu cầu thông tin của người dân đã đặt truyền thông chính sách vào một giai đoạn phát triển mới.

Phân tích dữ liệu lớn (BigData analytics), truyền thông tích hợp đa kênh, tương tác qua mạng xã hội, AI, VR, AR…; sự xuất hiện và phát triển chính phủ số, xã hội số, công dân số, chuyển đổi số… là những nhân tố quy định sự phát triển truyền thông chính sách trong giai đoạn mới. Theo đó, cùng với chuyển đổi số, sự phát triển của khoa học công nghệ, chính phủ số, Nhà nước kiến tạo ngày càng phát triển, vừa tác động đến chủ thể lãnh đạo lẫn nội dung chính trách trong truyền thông chính sách. Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng đa dạng, đặc biệt sự phát triển của truyền thông xã hội, các cổng thông tin điện tử, các giao thức truyền thông di động – tính cá nhân hóa rất cao,…

Báo chí dù vẫn là kênh truyền thông chủ yếu nhưng cũng vừa cạnh tranh, vừa bị đe dọa bởi các loại hình thông tin khác. Nhân dân, với sự trợ giúp của các thành tựu khoa học công nghệ ngày càng có trình độ nhận thức cao hơn, đòi hỏi nhiều hơn trong nhu cầu tiếp nhận thông tin chính sách. Việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chính sách, truyền thông chính sách cũng trở nên rất thuận tiện… Những điều đó đều tác động mạnh mẽ tới truyền thông chính sách mà yêu cầu cao nhất là đã đến lúc xây dựng một hệ sinh thái truyền thông chính sách, thuộc một hệ sinh thái lớn hơn là công tác tuyên truyền, nhằm đáp ứng các yêu cầu to lớn của thực tiễn đất nước trong bối cảnh truyền thông mới, bối cảnh phát triển trong kỷ nguyên mới.

5. Kết luận

Phát triển truyền thông chính sách tại Việt Nam đòi hỏi đặt nó là một trong những lĩnh vực của công tác tuyên truyền, với nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một yêu cầu tất yếu, bởi không có một mô hình truyền thông chính sách mẫu nào cho nhân loại mà thực tế mỗi quốc gia có sự phát triển phù hợp với các đặc điểm thể chế, kinh tế – xã hội của mình.

Với những đặc điểm, sự ưu việt trong thiết kế công tác tuyên truyền có thể xây dựng điển hình về truyền thông chính sách có giá trị học tập, tham khảo cho quốc tế, điển hình như cách mà Đảng, Nhà nước phát triển đường lối, chính sách trong thời kỳ kháng chiến, cứu nước hay như trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 vừa qua. Đồng thời, trên cơ sở nhận thức sâu sắc, tiếp thu những giá trị, ý nghĩa của truyền thông chính sách trong các lý thuyết, mô hình nổi tiếng ở các nước để vận dụng vào truyền thông chính sách, để đổi mới sáng tạo công tác tuyên truyền, nhất là trong bối cảnh truyền thông mới hiện nay.

Chú thích:
1. Peng Wenxiu (2015). Analysis of New Media Communication Based on Lasswell’s “5W” Model. Journal of Educational and Social Research, MCSER Publishing, Rome-Italy, vol. 5 no.3, September 2015.
2. Lazarsfeld, Paul F.; Berelson, Bernard; Gaudet, Hazel (2021). The people’s choice: how the voter makes up his mind in a presidential campaign (Legacy ed.). New York: Columbia University Press.
3. McLuhan, Marshall (1964). Understanding Media: The Extensions of Man. ISBN 81-14-67535-7.
4. Perloff, Richard M (2008). Political Communication: Politics, Press, and Public in America. Routledge, Northwestern, the U.S.
5, 6. Brian McNair (2003). An Introduction to Political Communication, Routledge, New York, the U.S, D Report on Public Communication. https://www.oecd.org/gov/open-government/public-communications-report-highlights-en.pdf
7. OECD. Report on Public Communication. https://www.oecd.org/gov/open-government/public-communications-report-highlights-en.pdf
8. C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 108.
9. V.I. Lênin toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 208.
10. C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập (2011). Tập 22. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 775.
11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 191.
12, 13. C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 224, 182.
14. V.I. Lênin toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 210.
15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 466.