Chuyển đổi số thực sự có thể giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với thế giới

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết làm rõ các định nghĩa về chính phủ điện tử, chính phủ thông minh, giá trị cốt lõi của chính phủ, những chức năng cơ bản khi sử dụng chính phủ điện tử, phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, thách thức, nỗ lực của Chính phủ trong thời gian qua để đưa ra những khuyến nghị nên tiếp tục thế nào để làm tốt hơn và để câu chuyện chuyển đổi số thực sự có thể giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với thế giới.

Cựu Tổng thống Mỹ, Barack Obama nói: “Tôi muốn mỗi ngày chúng ta tự hỏi mình, sử dụng công nghệ như thế nào để tạo ra sự khác biệt thực sự trong cuộc sống của con người”. Chuyển đổi số trong chính phủ điện tử (CPĐT) đã và đang tạo ra sự thay đổi trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

Một số định nghĩa

Theo Liên hiệp quốc (UN, 2014), chính phủ điện tử là việc sử dụng và áp dụng công nghệ thông tin trong hành chính công nhằm hợp lý hóa và tích hợp quy trình công việc và các quy trình, để quản lý dữ liệu và thông tin hiệu quả hơn, tăng cường cung cấp dịch vụ công cộng và mở rộng các kênh truyền thông để tham gia và trao quyền cho mọi người. Cho đến nay, Chính phủ cũng đã sử dụng Internet, công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông để điều hành Chính phủ nhưng người dùng chủ yếu là công chức Chính phủ, khác với chính phủ điện tử (CPĐT), phần đông là người dân truy cập vào các dịch vụ công qua các Web portal – Cổng dịch vụ công bằng mobile hay máy tính cá nhân.

CPĐT thông minh – Intelligent hay chính phủ thông minh có nghĩa là CPĐT thế hệ tiếp theo, kết hợp CNTT thông minh và sự sáng tạo của con người để đổi mới quản trị chính phủ và cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu, làm hài lòng mọi người; đồng thời, mở và chia sẻ tất cả thông tin điều hành của chính phủ một cách minh bạch và an toàn, có thể hỗ trợ khôn ngoan các hoạt động chính phủ khi giao tiếp với công chúng, dự đoán được những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai như chiến tranh, thời tiết, dịch bệnh… Tiên tiến hơn về mặt định lượng và chất lượng so với CPĐT hiện tại vì sử dụng các công nghệ thông tin số mới nhất như IoT – Internet vạn vật, Cloud – điện toán đám mây, Big data – Dữ liệu lớn, ML & AI – Học máy và Trí tuệ nhân tạo và Blockchain – Chuỗi khối…

Trong phương pháp tiếp cận làm chiến lược chuyển đổi số, chúng ta chia ra làm 4 bước chính: (1) Xác định giá trị cốt lõi (DNA) của chính phủ là gì; (2) Xác định ai là “khách hàng” và làm gì cho họ để nâng cao trải nghiệm khách hàng, tăng lợi nhuận và giảm chi phí vận hành; (3) Đánh giá và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, thách thức và cơ hội; (4) Đề nghị chiến lược phát triển theo các trình tự cần thiết và trong kinh phí cho phép.

Giá trị cốt lõi của chính phủ

Bước đầu tiên, chúng ta cần xác định giá trị cốt lõi của chính phủ là gì. Ở đây, chúng ta đang bàn, đề cập đến nhiệm vụ cốt lõi của chính phủ. Theo Daniel của IBM, trong bài viết 7 yếu tố thúc đẩy sự đổi mới của chính phủ đã nêu ngắn gọn nhiệm vụ của chính phủ là: để bảo vệ người dân trong ranh giới của đất nước và cung cấp các dịch vụ cần thiết khác nhau để mọi người dân được sống hạnh phúc. Vì những lý do này, các chính phủ cố gắng tự biến đổi để thực hiện các vai trò của mình một cách hiệu quả, nghĩa là cung cấp các dịch vụ công cộng và chính sách công tại cấp độ cao. Còn như John Adams (1735-1826), Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ) thì cho rằng: “Hạnh phúc của xã hội là sự kết thúc của chính phủ”. Nhưng cho đến hôm nay, trên toàn thế giới thì con người vẫn chưa hạnh phúc hoàn toàn, do nhiều lý do khác nhau như chiến tranh, dịch bệnh, giáo dục, kinh tế, thể chế… nên vai trò của các chính phủ vẫn còn. Các chính phủ vẫn đang tự thay đổi để chứng minh cần thiết sự tồn tại của mình trên tiền đóng thuế của người dân và chịu sự giám sát người dân thông qua các cuộc bầu cử, hệ thống truyền thông độc lập và mạng xã hội.

Người dùng và những chức năng chính của chính phủ điện tử

Bước thứ hai trong chuyển đổi số, chúng ta cần xác định ai là “khách hàng” của Chính phủ, chức năng là gì và cùng suy nghĩ làm gì nâng cao trải nghiệm khách hàng.

  • Nhóm khách hàng lớn nhất là người dân (G2C – Government to Citizens) mà chính phủ phải cung cấp thông tin kịp thời, trung thực cho người dân như chiến tranh, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, giáo dục… rồi cung cấp dịch vụ công cho người dân như giấy khai sinh, tình trạng hôn nhân… giải quyết khiếu nại như tranh chấp đất đai, lạm dụng quyền lực theo đúng luật pháp cho phép, lấy ý kiến người dân đóng góp.
  • Nhóm khách hàng thứ hai (G2B – Government to Business) là các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, nhà sản xuất mà chính phủ phải cung cấp các thông tin về các dự án như giao thông công cộng, quy hoạch thành phố, văn bản, hướng dẫn sử dụng, quy định, thi hành chính sách nhà nước; cung cấp giấy phép, giám sát đóng thuế, kiểm tra chất lượng hàng hóa và cung cấp giấy phép chất lượng…
  • Nhóm khách hàng thứ ba (G2G – Government to Government) là các cơ quan chính phủ, CPĐT tạo nên khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các dịch vụ một cách có hiệu quả giữa trung ương và địa phương, các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy nhà nước trong việc điều hành và quản lý nhà nước, trong đó chính phủ vừa đóng vai trò là chủ thể và khách hàng trong mối quan hệ này.
  • Nhóm khách hàng cuối cùng (G2E – Government to Employees) là các công chức làm việc cho Chính phủ, họ cần có những hệ thống tìm kiếm thông tin để cung cấp các giấy tờ cho người dân theo đúng pháp luật hay hệ thống phân tích dự liệu dựa trên nền tảng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để dự đoán khả năng chiến tranh, tác động môi trường, nhu cầu giao thông công cộng vàtư vấn cho lãnh đạo một cách kịp thời.
Điểm mạnh, điểm yếu, thách thức và cơ hội
  • Điểm mạnh từ năm 2006.

Chính phủ đã có Cổng thông tin điện tử chính phủ, cung cấp rất nhiều thông tin bổ ích cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về lợi ích của CPĐT, dịch vụ công, đã ban hành rất nhiều quyết định về CNTT, CPĐT, đề án chuyển đổi số quốc gia, CMCN 4.0… và đưa ra kiến trúc CPĐT cho tất cả các doanh nghiệp cùng tham gia phát triển. Có tới 40% các tỉnh, thành phố đã có cổng dịch vụ công cho công dân và doanh nghiệp, nâng bậc Việt Nam trên danh sách các nước có hệ thống CPĐT. Các tỉnh, thành phố, như: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Quảng Ninh… đã kết nối với cổng dịch vụ quốc gia qua trục liên thông và hệ thống xác thực trực tuyến một cổng – SSO (Single Sign-On). Người dân và doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin, tham khảo một số thủ tục, giấy tờ và làm được một số giấy tờ trực tuyến, tiết kiệm thời gian đáng kể.

  • Điểm yếu và thách thức.

Mặc dù có nhiều tiến bộ ở trên, nhưng những bài toán cơ bản vận hành quốc gia vẫn còn nguyên vẹn như hệ thống quản lý dân số, địa chỉ quốc gia, bản đồ số, hệ thống quản lý hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu tri thức quốc gia…

Trong thời gian qua, có rất nhiều dự án chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước, hệ thống quản lý dân số bằng tiền ODA, rồi kinh phí chính phủ chồng lấn lên nhau, chưa kể đến kinh phí nuôi dưỡng các tổ chức liên quan đến thống kê dân số… và trên nhiều diễn đàn trao đổi, khẳng định về những sự thành công vượt bậc của AI-Trí tuệ nhân tạo, Blockchain – Chuỗi khối, Big Data – Dữ liệu lớn, vận hành thành phố thông minh… nhưng người dân muốn chứng minh tình trạng hôn nhân để có thể mua được bất động sản hay kết hôn, thì phải đến nơi có hộ khẩu thường trú để xác thực với công an xã hay phường,…

Câu hỏi đặt ra là, có phải chúng ta không có khả năng phát triển hệ thống này không? Tôi xin khẳng định là có, thừa năng lực phát triển vì hệ thống cá độ bóng đá trực tuyến với hàng chục triệu người chơi cùng một lúc, phức tạp hơn nhiều, vẫn có thể phát triển được cho tới khi bị phát hiện… nhưng tại sao chúng ta lại thất bại ở bài toán CNTT đơn giản nhất như vậy? Câu trả lời cho nghịch lý này có lẽ là cách quản lý và phát triển các dự án CNTT không hiệu quả và có nhiều lỗ hổng, gây thất thoát và không quy được trách nhiệm. Tuy nhiên, vấn đề xác thực công dân trực tuyến hay người dùng hệ thống CPĐT là điều kiện bắt buộc vì các hệ thống hiện tại không thể xác thực định danh ai là người xin giấy tờ.

Rất nhiều cơ quan có chức năng, nhiệm vụ chồng lấn các nhiệm vụ về CPĐT, CNTT, tin học hóa, an toàn thông tin hay khoa học – công nghệ (KHCN)… vì khi tin học hóa trong CPĐT là áp dụng các giải pháp CNTT, KHCN vào kinh doanh, sản xuất, quản lý nhà nước… và tất nhiên các giải pháp phải an toàn thông tin, hay bàn đến trí tuệ nhân tạo mà không có dữ liệu, không biết thu thập dữ liệu từ đâu thì vẫn chỉ là câu chuyện không có hồi kết, không hiệu quả. Cho nên, rất nhiều các quyết định của chính phủ do các cơ quan này tư vấn về CPĐT hay CNTT có rất nhiều tham vấn chồng lấn và xung đột lẫn nhau. Và, kết quả, chính phủ giao nhiệm vụ phát triển các dự án CNTT cho các cơ quan không có chức năng và kinh nghiệm nên nhiều dự án không thành công và rất nhiều phần cứng nằm đắp chăn.

Kiến trúc CPĐT hiện tại sẽ tạo ra hàng trăm hệ thống CNTT và cơ sở dữ liệu phân tán ở các bộ và các địa phương, tốn kém, tạo nhiều lỗ hổng bảo mật, không bảo đảm hoạt động, chưa kể khi thảm họa xảy ra như cháy nổ, lũ lụt hay bị virus xóa, tin tặc cưỡng chiếm dữ liệu, cần rất nhiều nỗ lực và thời gian để phát triển tích hợp các hệ thống với nhau nhưng không thống nhất và chất lượng dữ liệu không bảo đảm, không thể liên kết các hệ thống khác như bảo hiểm y tế, bằng lái xe, thuế, công chứng… và làm rộng hơn khoảng cách giàu, nghèo giữa các địa phương.

Hơn nữa, mỗi bộ ngành, địa phương có Trung tâm CNTT riêng và việc chia sẻ thông tin, tài liệu giữa các bộ qua những trục liên thông nho nhỏ, không an toàn vì lý do kinh phí và tư duy phát triển, vận hành, vì vậy bảo mật của mỗi bộ và địa phương rất khác nhau, thiếu đồng bộ, đó là chưa kể những tài liệu tuyệt mật bị “phơi bày” trên Internet và rất khó truy vết ai là người phân tán.

Một số kiến nghị

Làm sao để tận dụng những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, nhất là kiến trúc CPĐT phân tán, giải quyết tận gốc những thách thức như xác thực người dùng trực tuyến và nắm bắt các công nghệ số mới và chương trình chuyển đổi số quốc gia để phát triển CPĐT thế hệ mới, làm cho chính phủ thông minh hơn, giảm chi tiêu cho chính phủ và địa phương, triển khai nhanh và đồng bộ, mang lại lợi ích nhanh chóng cho tất cả mọi người, có thể tiếp cận CPĐT qua Internet hay điện thoại thông minh, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.

Thứ nhất, Chính phủ cần tập hợp các cơ quan chức năng liên quan đến chuyển đổi số, CPĐT, CNTT, tin học hóa, an toàn thông tin, cơ yếu chính phủ, KHCN… thành một cơ quan chức năng chung, chuyên nghiệp hóa cao về CNTT như CIO ở các doanh nghiệp để phát triển, vận hành các hệ thống CNTT phục vụ cho CPĐT. Và, Chính phủ, các bộ, ngành chỉ như khách hàng, đặt đơn hàng với những yêu cầu cụ thể mà không tham gia vào phát triển như hiện nay. Ngoài ra, cần có kinh phí để thuê chuyên gia làm chiến lược chuyển đổi số quốc gia và CPĐT cho 5 -10 năm tới thì mới có thể lên kế hoạch và kinh phí phát triển khả thi và ra quyết định đúng, thống nhất trong lĩnh vực này.

Thứ hai, Bộ Thông tin và truyền thông là cơ quan chức năng được giao nhiệm vụ nên tập hợp các yêu cầu chức năng và sắp xếp theo mức độ cần thiết, chuẩn hóa và đơn giản hóa các quy trình hành chính hay nghiệp vụ, công khai cho tất cả các bộ ngành đối tác, tạo ra sân chơi công bằng cho các công ty có khả năng phát triển theo đúng tiêu chí của Chính phủ kiến tạo. Nên phát triển nền tảng Điện toán đám mây (ĐTĐM) trong trung tâm dữ liệu ở cả 3 miền, kết nối lẫn nhau, dùng chung cho tất cả các địa phương, các bộ, các cơ quan ngang bộ của Chính phủ, tất cả sẽ được cung cấp các máy ảo và chỗ lưu trữ, cơ sở dữ liệu theo yêu cầu, tất cả chương trình chuyên ngành của bộ hay địa phương như hệ thống quản lý tội phạm của Bộ Công an, hay hệ thống quản lý du lịch của Tổng cục Du lịch… sẽ chạy trên đó cùng với các chương trình chung cho các nhóm “khách hàng” của CPĐT đã nói ở trên, phối hợp với Bộ Thông tin và truyền thông thuê chuyên gia thẩm định và mở rộng các nền tảng ĐTĐM mà các công ty viễn thông đã phát triển. ĐTĐM là nền tảng số quan trọng nhất trong chuyển đổi số, tạo nên cơ sở hạ tầng linh hoạt, đáp ứng nhanh theo yêu cầu của người dùng, chia sẻ tài nguyên, giúp quản lý và giám sát tập trung, chuyên môn hóa cao, giảm chi phí vận hành và phát triển và bảo đảm an toàn thông tin. Cho nên những nước đi sau như Việt Nam sẽ thực sự may mắn nếu biết tận dụng tối đa những công nghệ CNTT mới.

Thứ ba, về phương diện an toàn thông tin thì càng ít cửa càng tốt, ở đây là ít các trung tâm dữ liệu thì càng dễ bảo vệ hơn hàng trăm chỗ, phân tán. Thực tiễn cho thấy, Amazon cũng chỉ có ba trung tâm dữ liệu, cung cấp ĐTĐM cho tất cả các khách hàng châu Âu ở Amsterdam, Frankfurt và Dublin. Kiến trúc CPĐT trên nền tảng tập trung này có nhiều nước đã phát triển thay vì phân tán theo kiểu Mỹ, theo các bang và các bộ hay ở các nước phát triển… Ví dụ, năm 2009 chính phủ Nhật Bản đã phát triển nền tảng ĐTĐM dùng chung cho tất cả các bộ, gọi là Kasumigaseki Cloud of Japan. Ở Hà Lan, có Bộ Cơ sở hạ tầng, chịu trách nhiệm vận hành tất cả trung tâm dữ liệu của tất cả các bộ ngành của chính phủ. Tương tự ở Hungary, tất cả bộ ngành và địa phương đều dùng chung một trung tâm dữ liệu và tất cả các dịch vụ của chính phủ đều được vận hành ở đó, gọi là NISZ – Trung tâm cung cấp dịch vụ truyền thông quốc gia.

Thứ tư, nên ứng dụng phương pháp mã hóa Bitcoin vào vấn đề bảo mật thông tin vì hệ thống Bitcoin chạy ở bất kỳ nơi đâu, bất cứ máy nào, không có firewall – bức tường lửa, không có phần mềm chống virus hay hacker, không có quản trị mạng, vẫn bảo đảm truyền dữ liệu tới đích, không bị thay đổi. Bitcoin đã định nghĩa lại khái niệm an toàn thông tin: “không tin ai và không đưa chìa khóa giải mã cho ai”. Hiện tại, tất cả phương pháp bảo mật thường dùng RSA – Hệ mã hóa bất đối xứng, tương đối tốt nhưng chìa khóa lại đưa cho bên thứ ba xác thực, gọi là Certificate Authority – Cơ quan cấp chứng chỉ là khóa thật. Và cơ quan thứ ba có thể bị hacker, mafia, KGB… chiếm đoạt và chèn middle man – cặp khóa giả vào giữa đường truyền dữ liệu, nên tất cả hệ thống an toàn nhất ở thế giới đều có thể mở được.

Cần thống nhất chứng minh thư nhân dân hay thẻ căn cước thành một, có thẻ điện tử trên thẻ căn cước, lưu trữ thông tin cá nhân trên đó, có thể đọc được qua điện thoại thông minh với chuẩn NFC (Near-Field Communications) là chuẩn kết nối không dây trong phạm vi tầm ngắn, làm cơ sở xác thực người dùng trong các dịch vụ công tương lai. Ở Hà Lan, hệ thống xác thực – DigiD, có App xác thực công dân rất an toàn, dùng kỹ thuật NFC, đọc thông tin xác thực người dùng lưu trên thẻ điện tử (chip) của bằng lái xe hay thẻ căn cước.

Thứ năm, nên phát triển cổng dịch vụ công tập trung cho tất cả các địa phương và các bộ, ngành như sơ đồ trên, trên nền tảng ĐTĐM, xác thực trực tuyến với 2 lớp, dựa theo dữ liệu mà hệ thống quản lý dân cư đã phát triển, theo các chuẩn mà Amazon hay Google đã sử dụng, phân quyền truy cập người dùng, các dữ liệu tập trung trên nền tảng Dữ liệu lớn, trục liên thông không còn vai trò nữa, với các Chatbots thông minh hướng dẫn người dân tìm kiếm thông tin nhanh nhất.

Thứ sáu, nên phát triển hệ thống quản lý tài liệu và văn bản tập trung với chữ ký số theo chuẩn chung của thế giới: dễ dùng và an toàn, cho tất cả các bộ trên nền tảng ĐTĐM, Dữ liệu lớn, Chuỗi khối, có thể tìm kiếm theo tiêu đề và nội dung như dùng Elastic Search. Và không cần các trục liên thông nhỏ để chia sẻ tài liệu mà chỉ cần cho bộ có nhu cầu quyền truy cập, ví dụ: kiểm toán nhà nước có thể truy cập thông tin của sở thuế một cách dễ dàng khi cần thiết. Kỹ thuật Chuỗi khối sẽ lưu vết trên tài liệu, ai tải xuống, từ đâu, lúc nào và truy được trách nhiệm người phát tán tài liệu mật.

Thứ bảy, nên phát triển hệ thống quản lý hồ sơ địa chính trên nền tảng GIS – hệ thống thông tin địa lý và bản đồ số, để quản lý quyền sở hữu đất đai của người dân, doanh nghiệp và nhà nước, giải quyết tận gốc các tranh chấp đất đai. Tất nhiên, không thể dùng bản đồ của Google hay Apple… vì mất tiền và không chính xác và câu chuyện chất lượng bản đồ số và cập nhật dữ liệu do Bộ Tài nguyên và Môi trường cần được quan tâm hơn.

Thứ tám, nên phát triển hệ thống tri thức quốc gia tập trung như một Wikipedia mở gồm tất cả thông tin được phân loại như của dịch vụ công cấp một, đề tài nghiên cứu khoa học của tất cả các bộ, ngành, các phát minh, sáng chế, luật pháp, sách giáo khoa, địa chỉ, tên doanh nghiệp, bao gồm các quyết định, văn bản hết mật sau một thời gian, bản đồ số, hồ sơ địa chính, thuốc nam, thuốc tây… trên nền tảng ĐTĐM, data lake – hồ sơ dữ liệu, lưu trữ tất cả dữ liệu có kiến trúc và phi kiến trúc, có thể tìm kiếm theo tiêu đề và nội dung.

Quan trọng nhất đó là nên thành lập ban kiến trúc CPĐT thông minh, có kiến trúc sư trưởng CNTT trong CIO, chịu trách nhiệm chính về kiến trúc giải pháp và cùng với ban CNTT chọn đối tác và phân tích đánh giá các giải pháp, lập ra chiến lược phát triển CPĐT thông minh trong nguồn kinh phí cho phép, thực hiện các chức năng cũng đồng thời là các giải pháp CNTT, sử dụng những công nghệ số mới nhất, bảo đảm kiến trúc dữ liệu mở, giao diện mở và các tiêu chuẩn mở; công khai với tất cả các bên liên quan. Tham khảo các chiến lược phát triển CPĐT mới nhất của thế giới như Canada Blueprint 2020, URUGUAY: Digital Government Strategy 2020, Korea E-Government Master Plan 2020, NEW ZEALAND: Government ICT Strategy 2015, ISRAEL: The Digital Israel National Initiative 2017, SINGAPORE: Smart Nation 2017, ESTONIA: Digital Agenda 2020 for Estonia…

Các trung tâm dữ liệu tập trung chắc chắn sẽ tiết kiệm hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm và trong khi Chính phủ không có kinh phí phát triển hạ tầng nhưng muốn giảm thiểu những thất bại, thì nên cho phép các doanh nghiệp phát triển và vận hành theo kiến trúc tổng quát của Chính phủ và sự chỉ đạo kỹ thuật của Kiến trúc sư trưởng CNTT và Ban CNTT. Tiền thu được từ các dịch vụ công sẽ trả lại nguồn tiền đầu tư cho doanh nghiệp và bàn giao lại cho Chính phủ khi đã thu đủ chi phí và phần trăm lợi nhuận trên tiền đầu tư theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp và Chính phủ.

Phát triển thành công chính phủ thông minh sẽ tạo ra phong cách lãnh đạo mới, phương thức mới, giảm kinh phí, cung cấp thông tin và dịch vụ công cho người dân bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, nâng cao trình độ dân trí và năng lực quản lý điều hành đất nước của Chính phủ. Chính phủ thông minh và người dân thông minh thì đất nước sẽ phát triển nhanh hơn và bền vững hơn. “Khách hàng” của Chính phủ thực sự hạnh phúc và tự hào có Chính phủ thực sự vì Nhân dân phục vụ.

 Lâm Việt Tùng
Chuyên gia tư vấn CNTT-Viễn thông cho Vodafone Ziggo (Hà Lan)